Recent Posts

Hình tượng sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông

By Anonymous →
 1. Dòng sông xinh đẹp và đa cảm
    1.1. Vẻ đẹp đa dạng và đầy quyến rũ


    + Luôn được nhìn nhận và khẳng định trong mối quan hệ với không gian địa lí. Dường như chính sự phong phú của đặc điểm địa lí ở vùng đất mà sông Hương đi qua đã góp phần hình thành nên vẻ đẹp của dòng sông. Vì vậy để thấy được vẻ đẹp phong phú của sông Hương cần xem xét nó trong sự gắn bó với không gian, với địa hình và cảnh thiên nhiên trong từng khoảng thời gian cụ thể
    + Không gian núi rừng Trường Sơn
    - Đặc điểm và cấu trúc địa lí: vô cùng phong phú với bóng cây đại ngàn, ghềnh thác, vực sâu, dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng…Tất cả tạo nên một môi trường để thử thách, rèn luyện và hình thành tính cách, tâm hồn cho sông Hương.
    - Đặc điểm của sông Hương trong môi trường địa lí ấy: dòng chảy khi rầm rộ, khi mãnh liệt, khi cuộn xoáy, khi lại dịu dàng và say đắm. Phần hồn riêng của sông được bộc lộ trong hành trình và qua đặc điểm dòng chảy là phần hồn của một con người đã trải qua cả một quá trình trưởng thành từ con gái trở thành bà mẹ: vừa mang sức sống mãnh liệt và hoang dại, vừa có diện mạo dịu dàng trí tuệ, vừa có tâm hồn trong sáng thẳm sâu lại vừa dạt dào một khát vọng tự do.
    + Không gian châu thổ vùng Châu Hoá
    - Đặc điểm địa lí: là sự chuyển tiếp từ vùng đồi núi sang vùng đồng bằng nên rất đa dạng về địa hình: có vực sâu, có đồi núi trùng điệp, có thềm đất bãi, có vùng lăng tẩm giữa mây trời và rừng thông.
    - Đặc điểm của dòng sông: Như một người con gái đẹp vừa tỉnh giấc mộng đã bộc lộ tính cách riêng, tâm hồn riêng- chuyển dòng liên tục, uốn khúc quanh co để tự tìm kiếm và bộc lộ vẻ đẹp riêng của nó. Dòng chảy của sông phẳng lặng, hiền hoà, trầm mặc “như triết lí, như cổ thi”, sắc nước của sông xanh thẳm khi qua lòng vực, phản chiếu màu sắc của đồi núi, mây trời khi qua những quả đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, hình thế của sông thay đổi theo hình thế của địa hình, lúc uốn khúc quanh co, lúc lại mềm như tấm lụa.
    + Không gian kinh thành Huế:
    - Đặc điểm địa lí: Huế trong tổng thể là một đô thị cổ nằm suốt dọc 2 bờ sông-nhiều biền bãi, nhiều cồn đảo và những nhánh sông đào mang nước sông Hương toả đi khắp đô thị.
    - Đặc điểm của sông: càng trở nên mềm mại, gợi cảm và đa cảm hơn. Dòng chảy hiền hoà, chậm rãi và yên tĩnh như mặt nước hồ. Diện mạo vô cùng xinh đẹp, lộng lẫy với trăm nghìn ánh hoa đăng. Tâm hồn đa cảm: vừa vui tươi khi gặp vùng biễn bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, vừa hiền hoà trong những đường cong qua vùng không gian nhiều cồn đảo, vừa ngập ngừng muốn đi muốn ở khi gặp được nét riêng văn hoá Huế, vừa sâu lắng trong những khúc nhạc đêm khuya, vừa mơ màng lưu luyến khi phải rời xa thành phố, vừa vương vấn quyến luyến đến độ phải tạo nên 1 khúc quanh để vòng lại thành phố thân thương .

    1.2. Vẻ đẹp đầy nữ tính và rất mực đa tình:
    + Nữ tính: Đây là nét riêng của sông Hương trong cái nhìn riêng của Hoàng Phủ Ngọc Tường (Sông Đà cũng được nhìn như một con người nhưng là con người với những tính cách hoàn toàn đối lập, vừa hung bạo, vừa trữ tình, lúc như một hung thần, lúc như một mĩ nữ xinh đẹp và gợi cảm). Sông Hương cũng có một đời sống và tính cách phong phú song trong sự phong phú ấy có thể thấy 1 nét thống nhất là chất nữ tính rất đậm: Khi là một cô gai Digan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng, khi là một người con gái đẹp ngủ mơ màng, khi là người con gái dịu dàng của đất nước, khi là người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở với một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ. Dù ở bất kỳ trạng thái tồn tại nào, sông Hương trong cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn đầy nữ tính. Nữ tính không chỉ ở vẻ ngoài xinh đẹp hiền hoà hay ở tâm hồn trong sáng mạnh mẽ. Chất nữ tính đậm đà nhất của sông Hương nằm trong chính đời sống tình cảm rất riêng của nó để trở thành 1 con sông rất mực đa tình.
    + Đa tình: Ngay từ đầu bài tuỳ bút, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có một cảm nhận rất độc đáo về sông Hương trong mối quan hệ với thành phố của nó-đó là quan hệ của một cặp tình nhân lý tưởng trong Truyện Kiều “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc”. Sông Hương sau đó vẫn được nhà văn khẳng định “là Kiều, rất Kiều”- nghĩa là không chỉ xinh đẹp, tài hoa mà còn đa tình và say đắm. Từ góc nhìn mang tính phát hiện này, nhà văn đã hình dung ra cuộc hành trình của sông Hương là cuộc hành trình tìm kiếm người tình mong đợi- một cuộc hành trình gian truân và cũng không hề ngắn ngủi, một cuộc hành trình tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Trong cuộc hành trình ấy, sông Hương có lúc trầm mặc, có lúc dịu dàng, cũng có lúc mãnh liệt mạnh mẽ…Song nó chỉ thực “vui tươi” khi đến ngoại ô thành phố, chỉ yên tâm khi nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời. Gặp được thành phố người tình mong đợi rồi, con sông trở nên duyên dáng ý nhị trong cái cách “uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến ”, cái đường cong “như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Cũng như Kiều khi gặp chàng Kim ở hội Đạp Thanh, sông Hương qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở để ánh hoa đăng chao nhẹ trên mặt nước “như những vấn vương của một nỗi lòng”. Và cũng như Kiều trong đêm tự tình với Kim Trọng, sông Hương đã rời khỏi kinh thành lại đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông- tây để gặp lại thành phố 1 lần cuối. Cái khúc quanh bất ngờ ấy, trong cảm nhận đầy lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trở thành nỗi vương vấn, thành chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu, là hành động chí tình của người con gái để gặp lại người tình, nói lời thề chưa kịp nói mà âm vang lời thề ấy cho đến giờ vẫn ngân nga vang vọng trên mặt sông thành những câu hò “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Cần hiểu đây không thuần túy chỉ là tưởng tượng lãng mạn của một tâm hồn nghệ sĩ vốn rất say những trang Kiều, đây còn là cách nhìn của một trí thức vốn hiểu thấu cả dòng sông và con người của xứ sở mình. Khi con sông được hiểu là mang trong nó linh hồn của con người thì lời thề của dòng sông với thành phố chính là tấm lòng của người dân châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở.

    b. Dòng sông đằm thắm, lắng sâu:    b.1. Cốt cách văn hóa rất riêng:
    + Cũng như nàng Kiều không chỉ có nhan sắc mà còn rất mực tài hoa, sông Hương trong cách nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là một “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Cái nhìn này trước hết có cơ sở từ thực tế: Sông Hương là dòng sông âm nhạc, đây cũng là nét riêng không thể lẫn của sông Hương với các dòng sông khác của đất nước. Trên đất nước Việt Nam tuy dòng sông nào cũng gắn với điệu hò, câu hát, song có được sự tồn tại song song của hai dòng nhạc cung đình và dân gian như sông Hương thì không thể có hai. Dòng nhạc cung đình rất trang nhã, rất sang trọng và cũng rất đặc sắc. Dòng nhạc dân gian cũng rất đằm thắm, da diết ân tình. Điểm gặp gỡ của cả nền âm nhạc cổ điển cũng như những câu hò dân gian là đều đã được sinh thành trên mặt nước sông Hương nên nó chỉ vang lên hay nhất trong những khoang thuyền, chỉ bộc lộ trọn vẹn sức lay động của nó với những ai từng lênh đênh trên sông nước trong những đêm khuya.
    + Dòng sông thi ca: ở điểm này, người con gái đẹp, người con gái đa tình, người tài nữ đã thực sự trở thành nàng thơ trong những tâm hồn thi sĩ. Sự phong phú của diện mạo và cốt cách văn hóa đã khiến sông Hương trong thơ ca được khám phá và rung động theo một cách rất riêng, không bao giờ lặp lại: “Từ xanh biếc … trong thơ Tố Hữu”. Và tuy có vẻ như Nguyễn Du và Tố Hữu có một chút gặp gỡ trong cảm hứng(Nguyễn Du lênh đênh trên những con thuyền với phiến trăng sầu nên những bản đàn đã đi suốt đời Kiều, còn Tố Hữu cũng đã thấy bóng dáng những nàng Kiều trên sóng nước Hương Giang ) song Tố Hữu lại chủ yếu hướng tới khẳng định sức mạnh phục sinh trong tâm hồn những người con gái ấy bằng một cái nhìn thắm thiết tình người
    + Ngay cả đến cái tên của dòng sông Hương cũng có một vẻ rất riêng của con gái để làm bâng khuâng một tâm hồn thi sĩ và gợi nguồn thi cảm trong chính hồn văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường để trong suốt quá trình tìm hiểu về con sông, không ít lần nhà văn bày tỏ niềm xúc động và những suy nghĩ chủ quan đậm đặc chất nghệ sĩ: không chỉ nhớ thương, nhà văn còn vô cùng xao xuyến mà liên tưởng mùi đất thơm với mùi da thịt, không chỉ hình dung sông Hương là người con gái mà còn thấy sông Hương hiện lên thành người con gái thần tiên.Và khi ấy cái tên của dòng sông lại gắn với một huyền thoại đẹp, để dòng sông trở thành con sông huyền thoại được yêu quý bởi người của đôi bờ: “Vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống lòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi”
    Như vậy, nhìn từ góc độ kết tinh văn hóa, con sông của xứ Huế vốn đã rất đẹp ở diện mạo, dáng vẻ lại càng đằm thắm và đầy sức mê hoặc ở chiều sâu tâm hồn. Nó khiến mỗi người khi đến với con sông không thể lấy cái tôi của mình mà áp đặt cảm nhận, chỉ có thể tìm sự hòa hợp với linh hồn của con sông để cùng sống và cùng rung động trong nỗi bâng khuâng.

    b.2. Sức sống mãnh liệt.    +Bản năng: Dòng sông Hương, ngay từ điểm khởi nguồn giữa lòng Trường Sơn đã là “một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại” với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng. Và cho dù sức mạnh bản năng của người con gái ấy đã được chế ngự bởi người mẹ rừng già, thì nó vẫn đủ cho sông Hương đi hết cuộc hành trình của riêng nó- một cuộc hành trình đầy gian truân qua cả ghềnh thác, vực thẳm, cồn đảo, quần sơn lô xô, đền đài, lăng tẩm, biền bãi, thành phố, xóm làng…Và không chỉ đi hết cuộc hành trình, bản năng sống đã khiến cô gái sông Hương sống trọng vẹn cuộc sống của riêng mình: từ cô gái trở thành bà mẹ, từ say mê tìm kiếm người tình đến hào phóng nuôi dưỡng và đắp bồi một nền văn hóa.

    + Khả năng: Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mượn chính văn kiện của Liên Hiệp quốc để nói về khả năng tạo lập, hình thành và hoàn thiện nền văn hóa Huế của sông Hương. “Dòng sông và những đầm phá của nó, những dòng kênh uốn lượn qua thành phố cũng với tư thái của những ngôi nhà giữa những khu vườn xanh tươi, tất cả mang lại cho Huế một vẻ trong sáng và thư thái, giành riêng cho cảm hứng nghệ thuật và tri thức”. Chính sông Hương đã nuôi dưỡng nguồn cảm hứng nghệ thuật, bồi đắp cho những tâm hồn nghệ sĩ để Huế có dòng thi ca và âm nhạc của riêng mình. Song cũng chính sông Hương đã bồi đắp nguồn sức sống cho đôi bờ để bốn mùa hoa trái thắm tươi, bồi dưỡng và rèn luyện bản lĩnh cho con người của một vùng đất để nhờ có bản lĩnh Việt sâu sắc mà sông Hương và con người của nó mới không bị thu hút trước sự gặp gỡ với nền văn hóa hải đảo từ Nam Thái Bình Dương, để trong đánh giá của nhà văn, chính vùng đất hạ lưu sông Hương là cái nôi của truyền thống văn hóa Phú Xuân.

    c. Dòng sông kiên cường mạnh mẽ.    c.1. Kiên trì và kiên cường


    - Sông Hương trong sự khám phá của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ được đặt trong mối quan hệ với không gian địa lý, với các giá trị văn hóa mà còn được soi ngắm từ góc độ lịch sử. Có rất nhiều khoảng thời gian được nhắc tới ở đây: thời các vua Hùng, sông Hương là một dòng sông biên thùy xa xôi, thế kỉ 15 là dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc, thế kỉ 18 soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ, thế kỉ 19 sống hết lịch sử bi tráng của những cuộc khởi nghĩa, thời đại cách mạng tháng Tám lại đem đến cho con sông những chiến công rung chuyển, thời chống Mĩ, sông Hương tuy bị tàn phá nặng nề song vẫn kiên trinh với lời thề sắt đá…Cách nhìn và cách dùng từ ngữ của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở đây đã làm bật sự vận động của hình tượng sông Hương từ một con sông địa lí thành một con sông lịch sử, từ một người con gái đẹp và tài hoa trở thành người con gái kiên cường của đất nước. Sông Hương không chỉ in dấu lịch sử,song hành cùng lịch sử mà còn chứa đựng lịch sử của riêng nó- một lịch sử hào hùng và dữ dội,bất khuất và đớn đau.

    Chỗ tinh tường của nhà văn là đã tìm thấy chất thơ trong sử để chưng cất thành sử thi như một vẻ đẹp riêng của sông Hương: sông Hương trong lịch sử và trong cảm nhận của nhà văn đã trở thành “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”.Trong dòng chảy thời gian, sông Hương đã đI trọn vẹn cuộc sống và lịch sử của dân tộc, của đất nước. Chính diện mạo và chiều sâu của lịch sử dân tộc khi in bóng xuống dòng sông dã mang lại cho sông Hương một tầm vóc kì vĩ, lớn lao, một ý nghĩa thiêng liêng và một tinh thần bất diệt.

    c.2. Anh dũng và bất khuất:

    Trong quá trình khảo cứu về lịch sử của sông Hương, cũng là lịch sử của dân tộc, của đất nước, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất chú ý làm bật cốt cách anh hùng của dòng sông xứ Huế và của con người ở miền đất Hóa Châu.Mảnh đất Hóa Châu trong cách nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trở thành “cái vũ đài quyết liệt” dựng lên để chứng tỏ “bản lĩnh đánh cận chiến của những dũng sĩ đứng trấn miền cửa khẩu chuyên đánh địch trong những khoang thuyền”. Với thế đứng sinh tử, với tầm vóc uy nghi, với mũi giáo của những người dũng sĩ, Hóa Châu đã trở thành một cửa ải Chi Lăng ở phía Nam Tổ quốc, trở thành nỗi khiếp sợ của bọn xâm lược qua các thời đại: từ tên tướng Hán Mã Viện kéo rê lưỡi gươm bình định tắm máu khắp Giao Chỉ cho đến tên tướng Minh Trương Phụ, Mộc Thạch đều phải cúi đầu lui bước, khiếp sợ khi đến đất Hóa Châu. Cho đến lúc bờ biển châu á rầm rộ tàu đồng phương Tây vào giữa thế kỉ 17, chính ngôi thành gan góc này đã dạy cho chúng bài học đầu tiên về sức mạnh Việt Nam bằng việc tiêu diệt cả một hạm đội của thực dân Hòa Lan.Đến thời chóng Mĩ, phẩm chất anh hùng và tinh thần bất khuất của người dân Hóa Châu lại một lần nữa được bộc lộ ra trong một tuyên ngôn ngỡ như giản dị mà sâu sắc vô cùng: “Tụi bây có sức thì cứ đào cho hết đất làng, xúc xuống hạm đội chở về đổ bên Mĩ. Làm cho được rồi hãy nói tới chuyện bình định cái đất Hóa Châu này”.Xưa và nay, cổ và kim hòa quyện, quấn quýt thành những kỉ niệm, ai người xưa,ai bây giờ thì lịch sử vẫn tươi rói những khuôn mặt của người cùng thời. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ nói về lịch sử của đất và người bên dòng Hương giang mà còn nghiền ngẫm sâu xa và xúc động thấm thía với những giá trị lịch sử đọng lại như lớp trầm tích của sông để con sông xứ Huế không chỉ xinh đẹp thơ mộng trong dáng vẻ mà còn rất thiêng liêng vĩ đại trong tầm vóc. Nghĩa là, đặt con sông trong dòng chảy của lịch sử cũng là thêm một thứ thước đo để Hoàng Phủ Ngọc Tường làm nổi bật vẻ đẹp riêng,sức sống riêng, linh hồn riêng của con sông quê hương.

    d. Đánh giá:
    Trong bài tùy bút này sông Hương đã được đặt trong một cái nhìn tổng thể và toàn diện: Lịch sử và văn hóa, sinh hoạt và phong tục, văn chương và đời sống, con người và thiên nhiên …Trong các mối liên hệ ấy, sông Hương vừa tươi đẹp, vừa thơ mộng và quyến rũ trong các sắc thái thiên nhiên vừa sâu lắng trong các giá trị văn hóa, vừa phong phú đến bất ngờ trong khả năng gợi hứng thú sáng tạo cho những người nghệ sĩ, vừa kiên cường bất khuất trong thế đứng và tinh thần khi đối diện với giặc ngoại xâm…Song dường như sau tất cả những điều đó, sông Hương vẫn mãi còn những điều bí ẩn chưa được khám phá hết nên vẫn mãi gợi niềm bâng khuâng trong tâm hồn con người. 

Nguồn: HocTap-TT

Phân tích hình tượng con Sông Đà trong bài tùy bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân

By Anonymous →

Văn của Nguyễn Tuân đứng là những giọt, mật của con ong yêu hoa, cần mần và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt đầu lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi...
(Đất Nưởc- Nguyễn Khoa Điểm)
Tổ quốc ta có trăm núi nghìn sông hùng vĩ. Có biết bao vần thơ đẹp viết về
sông núi quê hương. Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình yêu sông núi. Trong đó có Đà Giang, mà người xưa đã ngợi ca:
Chúng thủy giai đông tầu,
Đà Giang độc bắc lưu.
Sông Đà ngày nay đã cho nhân dân ta nguồn thủy điện to lớn, đã đem ánh sáng đến mọi miền đất nước thân yêu gần xa. Cách đây gần năm mươi năm (1960), nhà văn Nguyễn Tuân đã viết tác phẩm Sông Đà ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ kì thú, con người Tây Bắc có bao phẩm chất cao quý, đáng yêu. Bài tùy bút Người lái đò Sông Đà là một trong số 15 bài của tác phẩm Sông Đà, là một “tờ hoa”, “trang hoa" đích thực. Nó đã thể hiện một cách tuyệt đẹp phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, độc đáo. Bên cạnh hình ảnh ông lái đò là hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến với tất cả tình yêu sông núi quê hương.
Sông Đà hùng vĩ, vừa hung dữ, vừa thơ mộng. Nguyễn Tuân coi Sông Đà như một “cố nhân”, một cố nhân “chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẩn tính và gỏng thác lủ ngay đấy”.
Sông Đà hung bạo lắm thác nhiều ghềnh: “Đường lên Mường Lễ bao xa - bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh” (Ca dao). Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm - du lịch đi xa biết nhiều, đến sơn cùng thủy tận cho ta biết Ly Tiên và Bả Biên Giang là hai cái tên xa xưa của Đà Giang. Ông kể cho ta biết rằng trăm con thác dữ, những cái tên là lạ hay hay: thác Em, thác Giăng, Mỏ Tôm, Mỏ Năng, Suối Hoa, Hót Gió, Hát Loóng, thác Tiếu... Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống, sông Đà êm ả, bình yên, vì thế đồng bào Thái mới có tục ngữ: “Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm”.
Ở phía trên trung lưu sông Đà. đôi bờ vách đá dựng thành cao vút. Lòng sông đúng ngọ mới có ánh mặt trời, có đoạn lòng sông bị “chẹt” như cái yết hầu. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Tiếng ghềnh thác sông Đà nghe thật ghê rợn. Ở ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuồn luồng gió gùn ghè suốt năm...”. Những cái hút nước ở Tà Mường Vát, nước kêu “ặc ặc” như rót dầu sôi vào, hút nước xoáy tít đáy, phía trên lừ lừ những cánh quạ đàn. Tiếng thác rống nghe càng sợ. Nghe “như là oán trách..., như là van xin..; như là khiêu khích, giọng gằn mà chè nhạo”. Tiếng thác rống như tiếng rống của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vẩu, rừng tre nứa nổ lửa! Tả thác ghềnh sông Đà, ngòi bút của Nguyễn Tuân rất biến hóa, giàu óc tưởng tượng. Lúc thì ông sử dụng kĩ thuật điện ảnh, âm nhạc, hội họa, lúc thì ông sáng tạo nên những nhân hóa, những so sánh, liên tướng rất “đắt” để miêu tả, tái hiện và cảm nhận tính chất hung dữ của thác, ghềnh Đà Giang. Nguyễn Tuân ví sông Đà như một kẻ có “diện mạo vù tâm địa” nham hiểm, xảo quyệt, độc ác đã bày ra bao trùng vi “tliạch trận”, dày đặc “cửa tử”, la liệt ‘‘boong ke chìm vào pháo đài đá nổi”, những ông tướng đá trấn giữ “oai phong lẫm liệt” có bộ mặt “xanh lè” đáng sợ, sẵn sàng “bẻ gãy cán chèo”, “bắt chết” những chiếc thuyền đi qua. Nguyễn Tuân tả cảnh ông lái đò giao tranh với thần sông, thần đá, qua ba trùng vi thạch trận nơi “cửa ủi nước”, đã cực tả tính hung dữ của sông Đà, đem đến cho ta nhiều cảm giác mạnh.
Đọc tùy bút Người lái đò Sông Đà, ta biết thêm vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của con sông miền Tây Bắc này. Dáng hình sông Đà mềm mại xinh đẹp được Nguyễn Tuân ví với “một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải”, hoặc “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung Inở hoa ban hoa gạo tháng hai”. Một cách so sánh tài hoa, phong tình như Nước sông Đà thay đổi bốn mùa, nhưng đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích (...); Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đi như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”.
Sông Đà đâu chỉ nhiều thác ghềnh mà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng. Phía trên trung lưu, cảnh sông Đà “lặng lờ”; hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê “quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi”. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ ki lạ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Câu văn xuôi của Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp cổ kính hoa lệ như hai vế song quan trong một bài phú lưu thủy kiệt tác. Có lúc ông dùng bút pháp chấm phá “điểm nhấn" để làm nổi bật những nét đẹp thiên nhiên hữu tình của con sông Đà xa lạ mà mến thương. Là màu xanh của những nương ngô xuân đầu mùa. Là những đồi giang đầy “nõn búp”. Là những con hươu rừng “thơ ngộ” ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương. Là đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sô “bụng trắng như bạc rơi thoi”. Là chuồn chuồn bươm bướm ở bờ bãi sông đem lại cho người đi rừng niềm vui “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Là cảnh sông Đà cuối trung lưu êm đềm
'lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi”, hoặc "con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”...
Có nhà phê bình văn học đã nhận xét tùy bút Sông Đà là loại “tùy bút – bút kí". Đọc tùy bút Người lái đò Sông Dà, ta tiếp nhận được bao kiến thức mới lạ về địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục về một xứ sở, một dòng sông, về cảnh và người Tây Bắc... chỉ nói về thơ ca, ta thấy được một Nguyễn Tuân rất
sành điệu, tài hoa và uyên bác. Hai câu thơ “đề từ” mà ít người biết được xuất xứ ca ngợi vẻ đẹp nên thơ cua sông nước, vẻ đẹp độc đáo của Đà Giang: “Đẹp thay tiếng hát trên dòng sông”, và “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà Giang bác lưu”. Cũng như con sông Trường Giang bên Trung Quốc, con sông Đà của ta cũng mang vẻ đẹp “Đường thi” như một câu thơ tuyệt bút của Lí Bạch hơn 1.300 năm về trước:
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Lúc thì Nguyễn Tuân nhắc lại câu ca nói về chuyện thần Sông, thần Núi tranh giành người đẹp như dẫn hồn ta trở về huyền thoại: “Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Thi sĩ Tản Đà với Nguyễn Tuân là đôi bạn vong niên. Ta bắt gặp hai câu thơ Tản Đà trong bài tùy bút, thật là thú vị
Dái sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.
Qua đó ta càng cảm thấy, tình sông núi cũng là tình tri âm tri kì.
Nói về truyền thông yêu nước anh hùng của đồng bào Tây Bắc “xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng”, nhà văn đã không quên chọn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích - bậc sĩ phu kiên cường chống Pháp cuối thế ki XIX – để đưa vào bài kí:
Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu Giữ lấy Thao Đà dải thượng lưu.
Trang văn của Nguyễn Tuân có lúc tưởng như hội tụ tinh hoa văn hóa cổ kim Đông Tây. Tâm hồn người đọc như được nâng lên một tầm cao nhân văn, trí tuệ được khơi dậy, trở nên bừng sáng và giàu có. Người lái đò Sông Đà đúng là một giai phẩm mà Nguyễn Tuân đã góp vào, làm đẹp thêm vườn hoa nghệ thuật Việt Nam.
Ai đã từng đọc Vang bóng mệt thời chắc cảm nhận được cái sắc sảo, lịch lãm, tài hoa của Nguyễn Tuân khi ông nói về thư pháp, về uống trà, chơi đèn trung thu của những nhà nho thuở trước. Mà lòng thêm thư thái tự hào về bản sắc tốt đẹp của nền văn hóa Việt Nam được kết tinh trong tâm hồn dân tộc qua hàng nghìn năm.Đọc tùy bút Người lái đò sông Đà, ta vui thú thấy Nguyễn Tuân đã “để thơ vào sông nước”. Ông đã khám phá sự vật - con sông Đà - ở phương diện văn nghệ thuật, đã miêu tả, nhận diện con người - ông lái đò - ở phương diện thi hoa, nghệ sĩ. Tả cảnh thì biến hóa trong bốn mùa, trong mọi thời gian. Nóivề thác ghềnh thì đa thanh, phức điệu, bằng tất cả cảm giác tinh tế, bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác mạnh đầy màu sắc và góc cạnh với một kho từ ngữ giàu có, sáng tạo. Văn của Nguyễn Tuân đứng là những giọt, mật của con ong yêu hoa, cần mần và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời. Câu văn xuôi rất đẹp, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi.
Đọc Người lái đò sông Đà ta yêu thêm con người Việt Nam cần cù, dũng cảm, ta tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là quà tặng của thiên nhiên, là hồn thiêng đất Việt

Nguồn: HocTap-TT

Phân tích hình tượng người lái đò trên sông Đà

By Anonymous →
I . Mở bài 

Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa , uyên bác , cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống . Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút . Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tuỳ bút “ Người lái đò sông Đà” . Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông .

II . TB

1. Giới thiệu chung .


Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” dược in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp,đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, NT còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”

Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vỹ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thơi, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới : chất vàng mười của đất nước trong xây dựng CNXH qua hình ảnh người lái đò sông Đà.Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.


2. Phân tích nhân vật người lái đò . 

Người lái đò hiện lên trước hết là một người lao động từng trải , có nhiều kinh nghiệm đò giang , có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một :

“Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đat nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền , một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn…

Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức ấy , người lái đò chỉ có một cán chèo , một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái . Tuy nhiên , kết cục cuối cùng , người lái đò vẫn chiến thắng , khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé .

Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh , làm lụng âm thầm , giản dị , nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ , trở nên lớn lao , kì vĩ , trở thành đại diện của CON NGƯờI . Người lao động nhờ ý chí kiên cường , bền bỉ , quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên . Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc .


Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.

Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét : Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dế thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có Nguyễn Tuân.

III . Kết bài 

Tuỳ bút “ Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân . Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị , anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây . Qua đó , nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước , niềm tự hào hứng khởi , gắn bó tha thiết với non sông Việt Nam .

Nguồn: HocTap-TT

[BT Trắc nghiệm] Chương IV: Ứng dụng di truyền học (Có đáp án)

By Anonymous →
CHƯƠNG IV. ỨNG DỤNG DI TRUYỀN HỌC
368.Để tạo ra các giống, chủng vi khuẩn có khả năng sản xuất trên qui mô công nghiệp các chế phẩm sinh học như: axit amin, vitamin, enzim, hoocmôn, kháng sinh..., người ta sử dụng 
A. kĩ thuật di truyền. 
B. đột biến nhân tạo.
C. chọn lọc cá thể. 
D. các phương pháp lai.
369.Trong kỹ thuật di truyền người ta thường dùng thể truyền là
A. thực khuẩn thể và vi khuẩn.
B. plasmits và nấm men.
C. thực khuẩn thể và nấm men.
D. plasmits và thực khuẩn thể.
370.Người ta có thể tái tổ hợp thông tin di truyền giữa các loài rất khác xa nhau trong hệ thống phân loại mà phương pháp lai hữu tính không thực hiện được bằng
A. lai khác chi.
B. lai khác giống. 
C. kĩ thuật di truyền.
D. lai khác dòng.
371.Trong kĩ thuật cấy gen, ADN tái tổ hợp được tạo ra ở khâu
A. nối ADN của tế bào cho với plasmit.
B. cắt đoạn ADN của tế bào cho và mở vòng plasmit.
C. tách ADN của tế bào cho và tách plasmit khỏi tế bào vi khuẩn.
D. chuyển ADN tái tổ hợp vào tế bào nhận.
372.Trong kĩ thuật cấy gen, tế bào nhận được sử dụng phổ biến là vi khuẩn E.coli vì chúng 
A. có tốc độ sinh sản nhanh. 
B. thích nghi cao với môi trường.
C. dễ phát sinh biến dị.
D. có cấu tạo cơ thể đơn giản.
373.Để nối đoạn ADN của tế bào cho vào ADN plasmits, người ta sử dụng en zym
A. pôlymeraza.
B. ligaza.
C. restictaza.
D. amilaza.
374.Khi xử lý plasmits và ADN chứa gen cần chuyển bằng cùng một loại enzym là
A. pôlymeraza.
B. ligaza.
C. restictaza.
D. amilaza.
375.Trong kĩ thuật di truyền, điều không đúng về phương pháp đưa ADN tái tổ hợp vào trong tế bào nhận là:
A. Dùng muối CaCl2 hoặc dùng xung điện.
B. Dùng vi kim tiêm hoặc súng bắn gen.
C. Dùng hoóc môn thích hợp kích thích tế bào nhận thực bào.
D. Gói ADN tái tổ hợp trong lớp màng lipít, chúng liên kết với màng sinh chất và giải phóng AND tái tổ hợp vào tế bào nhận.
376.Trong kĩ thuật di truyền, để phân lập dòng tế bào chứa ADN tái tổ hợp người ta phải chọn thể truyền 
A. có khả năng tự nhân đôi với tốc độ cao.
B. các dấu chuẩn hay gen đánh dấu, gen thông báo.
C. có khả năng tiêu diệt các tế bào không chứa ADN tái tổ hợp.
D. không có khả năng kháng được thuốc kháng sinh.
377.Trong kĩ thuật di truyền, không thể đưa trực tiếp một gen từ tế bào cho sang tế bào nhận mà phải dùng thể truyền vì
A. thể truyền có thể xâm nhập dễ dàng vào tế bào nhận.
B. một gen đơn lẻ trong tế bào không có khả năng tự nhân đôi.
C. một gen đơn lẻ trong tế bào nhận dễ bị tiêu huỷ.
D. thể truyền có khả năng tự nhân đôi hoặc xen cài vào hệ gen của tế bào nhận.
378.Một trong những ứng dụng của kỹ thuật di truyền là
A. sản xuất lượng lớn prôtêin trong thời gian ngắn.
B. tạo thể song nhị bội.
C. tạo các giống cây ăn quả không hạt.
D. tạo ưu thế lai.
379.Ưu thế nổi bật của kĩ thuật di truyền là
A. sản xuất một loại prôtêin nào đó với số lượng lớn trong một thời gian ngắn.
B. khả năng cho tái tổ hợp thông tin di truyền giữa các loài rất xa nhau trong hệ thống phân loại.
C. tạo ra được các động vật chuyển gen mà các phép lai khác không thể thực hiện được.
D. tạo ra được các thực vật chuyển gen cho năng xuất rất cao và có nhiều đặc tính quí.
380.Ưu thế lai là hiện tượng con lai
A. có những đặc điểm vượt trội so với bố mẹ.
B. xuất hiện những tính trạng lạ không có ở bố mẹ.
C. xuất hiện nhiều biến dị tổ hợp.
D. được tạo ra do chọn lọc cá thể.
381.Giả thuyết về trạng thái dị hợp tử giải thích về hiện tượng ưu thế lai có công thức lai
A. AABBCC x aabbcc.
B. AABBcc x aabbCC.
C. AABbCC x aabbcc.
D. AABBcc x aabbCc.
382.Giả thuyết về trạng thái siêu trội cho rằng cơ thể lai có các tính trạng tốt nhất có kiểu gen
A. Aa.
B. AA.
C. AAAA.
D. aa.
383.Giả thuyết về trạng thái cộng gộp giải thích về hiện tượng ưu thế lai có công thức lai
A. AABBcc x aabbCC.
B. AABBCC x aabbcc.
C. AABbCC x aabbcc.
D. AABBcc x aabbCc.
384.Trong việc tạo ưu thế lai, lai thuận và lai nghịch giữa dòng thuần chủng có mục đích

  1. phát hiện các đặc điểm được tạo ra từ hiện tượng hoán vị gen để tìm tổ hợp lai có giá trị kinh tế nhất.
  2. xác định được vai trò của các gen di truyền liên kết với giới tính.
  3. đánh giá vai trò của tế bào chất lên sự biểu hiện tính trạng, để tìm tổ hợp lai có giá trị kinh tế nhất.
  4. phát hiện được các đặc điểm di truyền tốt của dòng mẹ.
385.Trong chọn giống, người ta dùng phương pháp tự thụ phấn bắt buộc hoặc giao phối cận huyết nhằm mục đích
A. tạo giống mới.
B. tạo ưu thế lai.
C. cải tiến giống.
D. tạo dòng thuần.
386.Tự thụ phấn ở thực vật hay giao phối cận huyết ở động vật dẫn đến thoái hoá giống vì qua các thế hệ 
A. tỉ lệ đồng hợp tăng dần, trong đó các gen lặn có hại được biểu hiện.
B. tỉ lệ dị hợp giảm nên ưu thế lai giảm.
C. dẫn đến sự phân tính.
D. xuất hiện các biến dị tổ hợp.
387.Hiện tượng thoái hoá giống ở một số loài sinh sản hữu tính là do
A. lai khác giống.
B. lai khác dòng.
C. tự thụ phấn, giao phối cận huyết.
D. lai khác loài.
388.Điều không đúng khi nói hiện tượng tự phối ảnh hưởng tới nguồn nguyên liệu chọn lọc trong quá trình tiến hoá là 
A. Trong tự phối tần số tương đối của các alen không đổi.
B. Tỉ lệ dị hợp tử giảm dần qua các thế hệ.
C.Tỉ lệ đồng hợp tử tăng tạo điều kiện cho các alen thể hiện.
D. Tạo ra thế hệ sau đồng nhất về mặt di truyền.
389.Điều không đúng về ý nghĩa của hiện tượng tự thụ phấn và giao phối cận huyết trong thực tiễn là
A. kiên định được các tính trạng mong muốn.
B. cơ sở khoa học của chon lọc đầu dòng và là cơ sở sinh học của một điều luật cấm hôn nhân gần.
C. không duy trì được các tính trạng mong muốn của bố mẹ ở các đời lai.
D. tạo các cá thể đồng hợp khác nhau về kiểu gen có giá trị khác nhau trong sản xuất.
390.Ở thực vật, để củng cố một đặc tính mong muốn người ta đã tiến hành cho
A. tự thụ phấn.
B. lai khác dòng.
C. lai khác thứ.
D. lai thuận nghịch.
391.Đối với cây trồng, để duy trì và củng cố ưu thế lai người ta có thể sử dụng 
A. sinh sản sinh dưỡng.
B. lai luân phiên.
C. tự thụ phấn.
D. lai khác thứ.
392.Hạt phấn của loài A thụ phấn cho noãn của loài B, cây lai thường
A. bất thụ. 
B. quả nhỏ.
C. dễ bị sâu bệnh. 
D. quả nhiều hạt.
393.Để tạo ra cơ thể mang bộ nhiễm sắc thể của 2 loài khác nhau mà không qua sinh sản hữu tính người ta sử dụng phương pháp
A. lai tế bào.
B. đột biến nhân tạo.
C. kĩ thuật di truyền. 
C. chọn lọc cá thể.
394.Phương pháp có thể tạo ra cơ thể lai có nguồn gen khác xa nhau mà bằng phương pháp lai hữu tính không thể thực hiện được là lai
A. khác dòng.
B. tế bào sinh dưỡng. 
C. khác thứ.
D. khác loài.
395.Dạng song nhị bội hữu thụ được tạo ra bằng cách
A. gây đột biến nhân tạo bằng tia phóng xạ.
B. gây đột biến nhân tạo bằng cônsixin.
C. lai xa kèm theo đa bội hoá.
D. gây đột biến nhân tạo bằng NMU
396.Tia tử ngoại thường được dùng để gây đột biến nhân tạo trên các đối tượng
A. hạt nảy mầm và vi sinh vật.
B. hạt khô và bào tử.
C. hạt phấn và hạt nảy mầm.
D. vi sinh vật, hạt phấn, bào tử.
397.Một loài thực vật, ở thế hệ P có tỉ lệ Aa là 100%, khi bị tự thụ phấn bắt buộc thì ở thế hệ F2 tỉ lệ Aa sẽ là
A. 25%. 
B. 50%.
C. 75%. 
D. 12,5%.
398.Một loài thực vật, ở thế hệ P có tỉ lệ Aa là 100%, khi bị tự thụ phấn bắt buộc thì ở thế hệ F3 tỉ lệ Aa sẽ là
A. 25%. 
B. 50%.
C. 75%. 
D. 12,5%.
399.Ưu thế lai biểu hiện rõ nhất trong phép lai
A. khác dòng.
B. khác thứ.
C. khác loài. 
D. thuận nghịch.
400.Ưu thế lai cao nhất ở thế hệ lai
A. F1.
B. F2.
C. F3.
D. F4.
401.Không sử dụng cơ thể lai F1 để nhân giống vì

  1. dễ bị đột biến và ảnh hưởng xấu đến đời sau.
  2. có đặc điểm di truyền không ổn định.
  3. tỉ lệ dị hợp ở cơ thể lai F1 bị giảm dần qua các thế hệ.
  4. đời sau dễ phân tính.
402.Loại biến dị xuất hiện khi dùng ưu thế lai trong lai giống là
A đột biến gen.
B. biến dị tổ hợp.
C. thường biến.
D. đột biến nhiễm sắc thể.
403.Hạt phấn của loài A có n= 5 nhiễm sắc thể thụ phấn cho noãn của loài B có n= 7 nhiễm sắc thể. Cây lai dạng song nhị bội có số nhiễm săc thể là
A. 24.
B. 12.
C. 14.
D. 10.
404.Trong quá trình phân bào, cơ chế tác động của cônsixin là
A. cản trở sự hình thành thoi vô sắc .
B. làm cho tế bào to hơn bình thường.
C. cản trở sự phân chia của tế bào.
D. làm cho bộ nhiễm sắc thể tăng lên.
405.Cơ chế tác động của các loại tia phóng xạ trong việc gây đột biến nhân tạo là
A. kích thích và ion hoá các nguyên tử khi chúng đi qua các mô sống.
B. kích thích các nguyên tử nhưng không gây ion hoá khi chúng đi qua.
C. làm đứt phân tử ADN hoặc nhiễm sắc thể.
D. cản trở sự phân li của nhiễm sắc thể.
406.Trong đột biến nhân tạo, hoá chất 5BU được sử dụng để tạo ra dạng đột biến 
A. thay thế cặp nuclêôtit này bằng cặp nuclêôtit khác
B. thêm cặp nuclêôtit.
C. đảo vị trí cặp nuclêôtit. 
D. mất cặp nuclêôtit.
407.Phương pháp gây đột biến nhân tạo được sử dụng phổ biến đối với 
A. thực vật và vi sinh vật. 
B. động vật và vi sinh vật.
C. động vật bậc thấp. 
D. động vật và thực vật.
408.Để cải tạo giống lợn ỉ, người ta đã cho con cái ỉ lai với con đực Đại Bạch. Nếu lấy hệ gen của Đại Bạch làm tiêu chuẩn thì ở thế hệ F4 tỉ lệ gen của Đại Bạch là
A. 93,75%. 
B. 87,5%.
C. 75%. 
D. 50%.
409.Trong chọn giống vật nuôi, việc dùng con đực tốt nhất của giống ngoại cho lai với con con cái tốt nhất của giống địa phương có năng suất thấp nhằm mục đích
A. cải tiến giống.
B. khai thác ưu thế của con lai.
C. củng cố đặc tính mong muốn.
D. ngăn chặn hiện tượng thoái hoá giống.
410.Về mặt di truyền học, phương phỏp lai cải tạo 
A. ban đầu làm tăng tỉ lệ thể dị hợp, sau đú tăng dần tỉ lệ thể đồng hợp.
B. làm tăng dần tỉ lệ thể dị hợp.
C. ban đầu làm giảm thể đồng hợp nhưng sau một số thế hệ lại làm tăng thể đồng hợp.
D. ban đầu làm giảm thể dị hợp, sau đú giảm dần thể đồng hợp.
411.Thành tựu chọn giống cây trồng nổi bật nhất ở nước ta là chọn giống
A. lúa. 
B. cà chua.
C. dưa hấu. 
D. nho.
412.Tính trạng do một hoặc vài gen quy định và ít chịu ảnh hưởng của môi trường là tính trạng

  1. chất lượng.
  2. số lượng.
  3. trội lặn không hoàn toàn.
  4. trội lặn hoàn toàn.
413.Tính trạng thường do nhiều gen quy định theo kiểu tương tác cộng gộp và chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố môi trường là những tính trạng

  1. chất lượng.
  2. số lượng.
  3. trội lặn không hoàn toàn.
  4. trội lặn hoàn toàn
414.Hệ số di truyền phản ánh mức độ ảnh hưởng của
A. môi trường lên sự biểu hiện tính trạng.
B. kiểu gen so với mức độ ảnh hưởng của môi trường đến sự biểu hiện tính trạng.
C. kiểu gen lên sự biểu hiện kiểu hình.
D. môi trường lên kiểu gen.
415.Hệ số di truyền cao thì 
A. tính trạng chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện ngoại cảnh.
B. hiệu quả chọn lọc nhỏ.
C. hiệu quả chọn lọc cao.
D. áp dụng phương pháp chọn lọc cá thể. 
416.Hệ số di truyền thấp thì 
A. tính trạng phụ thuộc chủ yếu vào kiểu gen.
B. hiệu quả chọn lọc cao.
C. hiệu quả chọn lọc thấp.
D. áp dụng phương pháp chọn lọc cá thể. 
417.Hệ số di truyền cao thì 
A. tính trạng chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện ngoại cảnh.
B. tính trạng phụ thuộc chủ yếu vào kiểu gen.
C. hiệu quả chọn lọc càng nhỏ.
D. áp dụng phương pháp chọn lọc cá thể. 
418.Hệ số di truyền thấp thì 
A. tính trạng chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện ngoại cảnh.
B. tính trạng phụ thuộc chủ yếu vào kiểu gen.
C. hiệu quả chọn lọc càng nhỏ.
D. áp dụng phương pháp chọn lọc hàng loạt. 
419.Hệ số di truyền cao thì 
A. tính trạng chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện ngoại cảnh.
Bhiệu quả chọn lọc càng nhỏ.
C. cần áp dụng phương pháp chọn lọc cá thể.
D. có thể áp dụng phương pháp chọn lọc hàng loạt. 
420. Hệ số di truyền thấp thì 
A. tính trạng tính trạng phụ thuộc chủ yếu vào kiểu gen.
Bhiệu quả chọn lọc cao.
C. cần áp dụng phương pháp chọn lọc cá thể.
D. có thể áp dụng phương pháp chọn lọc hàng loạt. 
421.Phương pháp chọn lọc hàng loạt có ưu điểm là
A. đơn giản, dễ thực hiện, ít tốn kém.
B. có hiệu quả cao với tất cả các loại tính trạng.
C. kết hợp được chọn lọc kiểu hình với kiểm tra kiểu gen.
D. có thể chủ động tạo ra các biến dị có lợi.
422.Phương pháp chọn lọc cá thể có ưu điểm là
A. đơn giản, dễ thực hiện, ít tốn kém.
B. có hiệu quả cao với tất cả các loại tính trạng.
C. đánh giá được giá trị kiểu gen của từng cá thể thông qua việc đánh giá kiểu hình đời con.
D. có thể chủ động tạo ra các biến dị có lợi.

423.Phương pháp chọn lọc cá thể có nhược điểm là
A. đòi hỏi công phu, theo dõi chặt chẽ, khó áp dụng rộng rãi.
B. không kết hợp được chọn lọc kiểu hình với kiểm tra kiểu gen.
C. phải tiến hành chọn lọc nhiều lần.
D. không cho phép chọn được dòng tốt nhất trong thời gian ngắn.
424.Những cây giao phấn cần chọn lọc nhiều lần vì
A. kiểu gen không đồng nhất, các thế hệ sau có sự phân tính.
B. các thế hệ sau thường xuất hiện nhiều biến cá thể.
C. các thế hệ sau dễ phát sinh đột biến.
D. các thế hệ sau thường bị thoái hoá giống.
425.Trong phương pháp chọn lọc hàng loạt, đối với cây trồng để khắc phục tình trạng chọn nhầm lẫn giữa những cá thể có kiểu hình tốt do kiểu gen tốt với những thường biến, người ta phải tiến hành
A. trên các chân ruộng đồng đều về địa hình, độ phì của đất.
B. trong những điều kiện môi trường khác biệt nhau.
C. trong các khu cách li hoặc các trung tâm sản xuất giống.
D. trên các vùng, miền khác nhau

Bạn có thể tải bài này với File Word TẠI ĐÂY

Nguồn: HocTap-TT