Năm 1859, giặc Pháp tấn công thành Gia Định, Nguyến Đình Chiểu viết bài thơ “Chạy giặc”, hai câu kết nói lên mong ước thiết tha:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng / Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Và mấy năm sau, Nhà thơ viết bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” - đình cao nghệ thuật và tư tưởng trong sự nghiệp thơ văn của ông. Có thể coi bài văn tế là tấm lòng trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đối với những nghĩa sĩ anh hùng của nhân dân ta trong buổi đầu chống Pháp xâm lược. Nhà thơ mù đất Đồng Nai đã dựng lên một “tượng đài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm.
Sau khi chiếm đóng 3 tỉnh miền Đông, giặc Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền tây Nam Bộ. Năm 1861, vào đêm 14/12, nghĩa quân đã tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc, thuộc tỉnh Long An ngày nay.Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt “làm cho mã tà, ma ní hồn kinh”, Gần 30 chiến sĩ nghĩa quân đã anh dũng hi sinh. Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài văn tế này - bài ca về người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “tượng đài nghệ thuật” hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc và tính chất của tượng đài nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung chiến đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên 1 thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc. Hoành tráng về quy mô, nó không chỉ khắc hoạ về 1 nghĩa quân, 1 anh hùng mà đông đảo những người “dân ấp dân lân mến nghĩa quân làm quân chiêu mộ” dưới ngọn cờ “bình tây” của Trương Công Định. Tính chất, quy mô hùng tráng, hoành tráng ấy lại gắn liền với bi ai đau thương thống thiết. “Cái tượng đài nghệ thuật” về người nông dân đánh Pháp giữa thế kỉ XIX đã được dựng lên trong nước mắt, trong tiếng khóc của nhà thơ, của nhân dân và cả của đất nước. Trong toàn bài văn tế đặc biệt trong phân thích thực và ai vãn , ta cảm nhận sâu sắc tính chất bi tráng này.
Mở đầu bài văn tế là 1 lời than qua 2 câu tứ tự song hành. Hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:
“Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ”
Tổ quốc lâm nguy. Súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương sứ sở.
“Tan chợ vưà nghe tiếng súng Tây…” (“Chạy giặc”). Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của nhân dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và ság ngời chính nghĩa. Có thể nói cặp câu tứ tự này là tư tưởng chủ đạo của bài văn tế, nó được khắc trên đá hoa cương đặt ở phía trước, chính diện của “tượng đài nghệ thuật” ấy.
Hình ảnh trung tâm của “tượng đài nghệ thuật” “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là những chiến sĩ nghĩa quân. Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời “côi cút” sau luỹ tre làng. Chất phác và hiền lành, cần cù là chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với “cung ngựa trường nhung”:
“Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn; toan lo nghèo khó
Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.
Họ là lớp người đông đảo, sống gần fũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, “chưa hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”.
Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những “dân ấp, dân lân” ấy đã đứng lên “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ “bát cơm manh áo ở đời” là cái nghĩa lớn mà họ “mến” là đeo đuổi. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những câu cách cú hay nhất (giản dị mà chắc nịch) ca ngợi long yêu nước, căm thù giặc của người nghĩa sĩ:
“Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có 1 thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”, chỉ có 1 chí hướng: “phen này xin ra sức đoạn kình…, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Hình ảnh người chiến sĩ nghĩa quân ra trận là những nét vẽ, nét khắc hùng tráng nhất, hoành tráng nhất trong “tượng đài nghệ thuật” bài văn tế. Bức tượng đài có 2 nét vẽ tương phản đối lập: đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược. Giặc cướp được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “1 manh áo vải” . Vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. Thế mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”.
“Tượng đài nghệ thuật” đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc Pháp:
“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.
Đây là những câu gối hạc tuyệt bút. Không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, “có bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tấn công như vũ bão, tung hoành giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”… Giọng văn hùng tráng, phép đối tài tình, các động từ mạnh được chọn lọc và đặt đúng chỗ… đã tô đậm tinh thần quả cảm, vô song của các nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nguyễn Đình Chiểu đã dành cho các chiến sĩ nghĩa quân những tình cảm đẹp nhất: ngợi ca, khâm phục, tự hào. Qua đó, ta thấy, trước Nguyễn Đình Chiểu chưa có nhà thơ nào văn nào viết về người nông dân đánh giặc hay và sâu sắc như thế.
Trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn có những giọt lệ, lời than khóc, một âm điệu thông thiết, bi ai được thể hiện ở phần ai vãn. Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người anh hùng: “Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ” Đất nước, quê hương vô cùng thương tiếc. Một không gian rông lớn bùi ngùi, đau đớn:
“Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ 2 hàng kuỵ nhỏ”.
Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ được nói đến vô cùng xúc động. “Hàng trăm năm sau, chúng ta đọc Nguyễn Đình Chiểu có lúc như vẫn còn thấy ngòi bút của nhà thơ nức nở trên từng trang giấy” (Hoài Thanh):
“Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bòn xế dật dờ trước ngõ”.
Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Tấm gương chiến đấu và hi sinh của họ là “tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm”, đời đời bất diệt, sáng rực mãi, trường tồn cùng sông núi. Rất đáng tự hào:
“Ôi! Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ”
Bài học lớn nhất của người nghĩa sĩ để lại cho đất nước và nhân dân là bài học về sống và chết. Sống hiên ngang. Chết bất khuất. Tâm thế ấy đã tô đậm chất bi tráng cho “tượng đài nghệ thuật” về người nông dân đánh giặc:
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giăc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;…”.
Dám xả thân vì nghĩa lớn, “cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm”, các chiến sĩ nghĩa quân trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta.
Tóm lại, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” khẳng định văn chương lỗi lạc, tấm lòng yêu thương dân mãnh liệt, thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. Đúng là “người thư sinh dùng bút đánh giặc” (Miên Thẩm). Một giọng văn vừa hùng tráng, vừa thống thiết, bi ai. Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một “tượng đài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống giặc ngoại xâm. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một kiệt tác trong văn tế cổ kim của dân tộc. Nhà văn Hoài Thanh có viết: “Nhà nho nghèo ấy đã sống cuộc sống của quần chúng, và đã đi cùng quần chúng phấn đấu gian nan. Chính quần chúng cũng cần cù, dũng cảm đã tiếp sức cho Nguyễn Đình Chiểu, cho trí tuệ , cho tình cảm, cho lòng tin và cả cho nghệ thuật của Nguyên Đình Chiểu
- Nguồn từ: VietClan.Net - http://vietclan.net/
Bài 2: Phân tích hình tượng người nghĩa sĩ trong bài thơ.
Thế kỉ XIX là thờ; kì lịch Sử "đau thương nhưng vĩ đại"
1 của dân tộc ta. ờ thế kỉ ấy, có một nhà thơ mù nhưng
tấm lòng sáng như gương, người đã thấy hết những gì mà bao
nhiêu người mắt sáng không nhận ra, người đó là nhà thơ Nguyễn
Đình Chiểu. Và, trong văn học Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình
Chiểu, chưa có một hình tượng nhân dân nào chân thực và cảm
động hơn người nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của
ông. '
Nói đúng ra, trước Nguyễn Đình Chiểu, con người bình thường
cũng xuất hiện trong văn chương Việt Nam. Tuy nhiên, đó hoặc là
những ngư phủ, tiều phu hình bóng thấp thoáng, khi xa khi gần
trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, hoặc là đám đông lố nhố, hằng
ngày là cục đất củ khoai, khi có dịp trở nên những "kiêu binh" lỗ
mãng trong Hoàng Lê nhất thống chí.
Người nông dân xuất hiện trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu
hoàn toàn khác hẳn. Họ thật sự là những người bình thường, là
dân ấp, dân lân, ngoài cật có một manh áo vải. Bản tính lại hiền
lành, chất phác, quanh năm suốt tháng côi cút làm ăn, toan lo
nghèo khó. Bên trong luỹ tre làng, 'họ chỉ biết ruộng trâu, ở trong
làng bộ, thành thục với nghề nông trang: Việc cuốc, việc cày, việc
bừa, việc cấy, tay vốn quen làm. Nói như nhà thơ Thanh Thảo sau
này, "họ lấm lấp sình lầy ấy đã bước vào thơ Đồ Chiểu. Đành rằng
nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã có tâm lòng sáng để phát hiện ra
họ, nhưng trước hết bởi dù không áo mão cân đai phẩm hàm văn
võ họ vẫn để lại những vệt bùn làm vinh dự cho thơ . Đó chính là
tấm lòng yêu nước, trọng nghĩa của người nông dân.
Khi nghe tin quân giặc đến, dù là dân thường nhưng những người
nông dân vẫn lòng đầy sốt ruột. Trong xã hội xưa, những chuyện quốc
gia đại sự trước hết là việc ' của quan. Dân nghe theo quan mà làm.
Dân nhìn thấy quan mà theo. Vì thế, họ trông chờ tin quan như trời
hạn trông mưa. Mắt còn trông đợi nhưng lòng thì đã rõ:
Bữa thấy bông bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem
ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Lòng yêu nước không độc quyến của ai. Huống chi, với những
người nông dân chân chất, khi mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm
thì họ ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. Vì thế, dù là dân ấp,
dân lân, trong tay chỉ còn một tầm vông, họ đã sẵn sàng xả thân
vì nghĩa cả:
Hỏa mai đánh bàng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
gươm đeo dùng bàng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc nhằn quan quan gióng trống kì trống giục, đạp rào
lướt tới coi giặc như không, nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn
to xô cửa xông vào, liều mình như chằng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn
kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt. tàu đồng súng nổ.
Cuộc đối đầu một mất một còn giữa những người nông dân yêu
nước với kẻ thù là cuộc đối đầu không cân sức. Họ thất thế ngay từ
ban đầu khi tự giác đứng lên, không có ai tổ chức (ai đòi, ai bắt),
chẳng có binh thư, binh pháp. Còn quân giặc thì chuẩn bị bài bản,
có quy mô, quy củ. Họ thất thế khi xung trận mà ngoài cật có một
manh áo vải, trong tay cầm ngọn tầm vông, còn kẻ thù lại có tàu
sất tàu đồng, đạn nhỏ, đạn to. Song chí căm thù, lòng yêu nước đã
khiến những người nông dân trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ,
liều mình như chẳng có ai. Ai cũng biết cái giá cuối cùng của hành
động ấy Những nghĩa sĩ nông dân càng biết rõ điều đô:
Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
Những nghĩa sĩ nông dân trở thành :những anh hùng thất thế
nhưng vẫn hiên ngang" (Phạm Văn Đồng). Hình tượng người nghĩa
sĩ chân đất lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam đã mang
hình dáng đầy bi tráng. Nó như một tượng dài sừng sững tạc vào
không gian lẫn với thời gian để nói với muôn đời rằng: Thác mà trả
nước non rồi nở, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà
ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
Sự gắn bó, lòng yêu thương và cảm phục đã khiến Nguyễn Đình
Chiểu ghi tạc vào thơ văn mình hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc
thật bi tráng. Hình tượng ấy mang sức nặng của một thời đại "nước
mắt anh hùng lau chẳng ráo" và tấm lòng yêu thương bi thiết của nhà
thơ mù đất Đồng Nai - Gia Định. Những người anh hùng "sống đánh
giặc, thác cũng đánh giặc". Còn nhà thơ của họ đã dựng lại tượng đài
ấy "nghìn năm" trong kí ức tâm hồn của người đời bằng văn chương.
Nguồn: Shopkienthuc
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng / Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Và mấy năm sau, Nhà thơ viết bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” - đình cao nghệ thuật và tư tưởng trong sự nghiệp thơ văn của ông. Có thể coi bài văn tế là tấm lòng trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đối với những nghĩa sĩ anh hùng của nhân dân ta trong buổi đầu chống Pháp xâm lược. Nhà thơ mù đất Đồng Nai đã dựng lên một “tượng đài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm.
Sau khi chiếm đóng 3 tỉnh miền Đông, giặc Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền tây Nam Bộ. Năm 1861, vào đêm 14/12, nghĩa quân đã tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc, thuộc tỉnh Long An ngày nay.Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt “làm cho mã tà, ma ní hồn kinh”, Gần 30 chiến sĩ nghĩa quân đã anh dũng hi sinh. Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài văn tế này - bài ca về người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “tượng đài nghệ thuật” hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc và tính chất của tượng đài nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung chiến đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên 1 thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc. Hoành tráng về quy mô, nó không chỉ khắc hoạ về 1 nghĩa quân, 1 anh hùng mà đông đảo những người “dân ấp dân lân mến nghĩa quân làm quân chiêu mộ” dưới ngọn cờ “bình tây” của Trương Công Định. Tính chất, quy mô hùng tráng, hoành tráng ấy lại gắn liền với bi ai đau thương thống thiết. “Cái tượng đài nghệ thuật” về người nông dân đánh Pháp giữa thế kỉ XIX đã được dựng lên trong nước mắt, trong tiếng khóc của nhà thơ, của nhân dân và cả của đất nước. Trong toàn bài văn tế đặc biệt trong phân thích thực và ai vãn , ta cảm nhận sâu sắc tính chất bi tráng này.
Mở đầu bài văn tế là 1 lời than qua 2 câu tứ tự song hành. Hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:
“Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ”
Tổ quốc lâm nguy. Súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương sứ sở.
“Tan chợ vưà nghe tiếng súng Tây…” (“Chạy giặc”). Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của nhân dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và ság ngời chính nghĩa. Có thể nói cặp câu tứ tự này là tư tưởng chủ đạo của bài văn tế, nó được khắc trên đá hoa cương đặt ở phía trước, chính diện của “tượng đài nghệ thuật” ấy.
Hình ảnh trung tâm của “tượng đài nghệ thuật” “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là những chiến sĩ nghĩa quân. Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời “côi cút” sau luỹ tre làng. Chất phác và hiền lành, cần cù là chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với “cung ngựa trường nhung”:
“Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn; toan lo nghèo khó
Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.
Họ là lớp người đông đảo, sống gần fũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, “chưa hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”.
Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những “dân ấp, dân lân” ấy đã đứng lên “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ “bát cơm manh áo ở đời” là cái nghĩa lớn mà họ “mến” là đeo đuổi. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những câu cách cú hay nhất (giản dị mà chắc nịch) ca ngợi long yêu nước, căm thù giặc của người nghĩa sĩ:
“Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có 1 thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”, chỉ có 1 chí hướng: “phen này xin ra sức đoạn kình…, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Hình ảnh người chiến sĩ nghĩa quân ra trận là những nét vẽ, nét khắc hùng tráng nhất, hoành tráng nhất trong “tượng đài nghệ thuật” bài văn tế. Bức tượng đài có 2 nét vẽ tương phản đối lập: đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược. Giặc cướp được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “1 manh áo vải” . Vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. Thế mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”.
“Tượng đài nghệ thuật” đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc Pháp:
“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.
Đây là những câu gối hạc tuyệt bút. Không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, “có bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tấn công như vũ bão, tung hoành giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”… Giọng văn hùng tráng, phép đối tài tình, các động từ mạnh được chọn lọc và đặt đúng chỗ… đã tô đậm tinh thần quả cảm, vô song của các nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nguyễn Đình Chiểu đã dành cho các chiến sĩ nghĩa quân những tình cảm đẹp nhất: ngợi ca, khâm phục, tự hào. Qua đó, ta thấy, trước Nguyễn Đình Chiểu chưa có nhà thơ nào văn nào viết về người nông dân đánh giặc hay và sâu sắc như thế.
Trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn có những giọt lệ, lời than khóc, một âm điệu thông thiết, bi ai được thể hiện ở phần ai vãn. Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người anh hùng: “Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ” Đất nước, quê hương vô cùng thương tiếc. Một không gian rông lớn bùi ngùi, đau đớn:
“Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ 2 hàng kuỵ nhỏ”.
Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ được nói đến vô cùng xúc động. “Hàng trăm năm sau, chúng ta đọc Nguyễn Đình Chiểu có lúc như vẫn còn thấy ngòi bút của nhà thơ nức nở trên từng trang giấy” (Hoài Thanh):
“Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bòn xế dật dờ trước ngõ”.
Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Tấm gương chiến đấu và hi sinh của họ là “tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm”, đời đời bất diệt, sáng rực mãi, trường tồn cùng sông núi. Rất đáng tự hào:
“Ôi! Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ”
Bài học lớn nhất của người nghĩa sĩ để lại cho đất nước và nhân dân là bài học về sống và chết. Sống hiên ngang. Chết bất khuất. Tâm thế ấy đã tô đậm chất bi tráng cho “tượng đài nghệ thuật” về người nông dân đánh giặc:
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giăc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;…”.
Dám xả thân vì nghĩa lớn, “cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm”, các chiến sĩ nghĩa quân trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta.
Tóm lại, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” khẳng định văn chương lỗi lạc, tấm lòng yêu thương dân mãnh liệt, thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. Đúng là “người thư sinh dùng bút đánh giặc” (Miên Thẩm). Một giọng văn vừa hùng tráng, vừa thống thiết, bi ai. Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một “tượng đài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống giặc ngoại xâm. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một kiệt tác trong văn tế cổ kim của dân tộc. Nhà văn Hoài Thanh có viết: “Nhà nho nghèo ấy đã sống cuộc sống của quần chúng, và đã đi cùng quần chúng phấn đấu gian nan. Chính quần chúng cũng cần cù, dũng cảm đã tiếp sức cho Nguyễn Đình Chiểu, cho trí tuệ , cho tình cảm, cho lòng tin và cả cho nghệ thuật của Nguyên Đình Chiểu
- Nguồn từ: VietClan.Net - http://vietclan.net/
Bài 2: Phân tích hình tượng người nghĩa sĩ trong bài thơ.
Thế kỉ XIX là thờ; kì lịch Sử "đau thương nhưng vĩ đại"
1 của dân tộc ta. ờ thế kỉ ấy, có một nhà thơ mù nhưng
tấm lòng sáng như gương, người đã thấy hết những gì mà bao
nhiêu người mắt sáng không nhận ra, người đó là nhà thơ Nguyễn
Đình Chiểu. Và, trong văn học Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình
Chiểu, chưa có một hình tượng nhân dân nào chân thực và cảm
động hơn người nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của
ông. '
Nói đúng ra, trước Nguyễn Đình Chiểu, con người bình thường
cũng xuất hiện trong văn chương Việt Nam. Tuy nhiên, đó hoặc là
những ngư phủ, tiều phu hình bóng thấp thoáng, khi xa khi gần
trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, hoặc là đám đông lố nhố, hằng
ngày là cục đất củ khoai, khi có dịp trở nên những "kiêu binh" lỗ
mãng trong Hoàng Lê nhất thống chí.
Người nông dân xuất hiện trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu
hoàn toàn khác hẳn. Họ thật sự là những người bình thường, là
dân ấp, dân lân, ngoài cật có một manh áo vải. Bản tính lại hiền
lành, chất phác, quanh năm suốt tháng côi cút làm ăn, toan lo
nghèo khó. Bên trong luỹ tre làng, 'họ chỉ biết ruộng trâu, ở trong
làng bộ, thành thục với nghề nông trang: Việc cuốc, việc cày, việc
bừa, việc cấy, tay vốn quen làm. Nói như nhà thơ Thanh Thảo sau
này, "họ lấm lấp sình lầy ấy đã bước vào thơ Đồ Chiểu. Đành rằng
nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã có tâm lòng sáng để phát hiện ra
họ, nhưng trước hết bởi dù không áo mão cân đai phẩm hàm văn
võ họ vẫn để lại những vệt bùn làm vinh dự cho thơ . Đó chính là
tấm lòng yêu nước, trọng nghĩa của người nông dân.
Khi nghe tin quân giặc đến, dù là dân thường nhưng những người
nông dân vẫn lòng đầy sốt ruột. Trong xã hội xưa, những chuyện quốc
gia đại sự trước hết là việc ' của quan. Dân nghe theo quan mà làm.
Dân nhìn thấy quan mà theo. Vì thế, họ trông chờ tin quan như trời
hạn trông mưa. Mắt còn trông đợi nhưng lòng thì đã rõ:
Bữa thấy bông bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem
ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Lòng yêu nước không độc quyến của ai. Huống chi, với những
người nông dân chân chất, khi mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm
thì họ ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. Vì thế, dù là dân ấp,
dân lân, trong tay chỉ còn một tầm vông, họ đã sẵn sàng xả thân
vì nghĩa cả:
Hỏa mai đánh bàng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
gươm đeo dùng bàng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc nhằn quan quan gióng trống kì trống giục, đạp rào
lướt tới coi giặc như không, nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn
to xô cửa xông vào, liều mình như chằng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn
kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt. tàu đồng súng nổ.
Cuộc đối đầu một mất một còn giữa những người nông dân yêu
nước với kẻ thù là cuộc đối đầu không cân sức. Họ thất thế ngay từ
ban đầu khi tự giác đứng lên, không có ai tổ chức (ai đòi, ai bắt),
chẳng có binh thư, binh pháp. Còn quân giặc thì chuẩn bị bài bản,
có quy mô, quy củ. Họ thất thế khi xung trận mà ngoài cật có một
manh áo vải, trong tay cầm ngọn tầm vông, còn kẻ thù lại có tàu
sất tàu đồng, đạn nhỏ, đạn to. Song chí căm thù, lòng yêu nước đã
khiến những người nông dân trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ,
liều mình như chẳng có ai. Ai cũng biết cái giá cuối cùng của hành
động ấy Những nghĩa sĩ nông dân càng biết rõ điều đô:
Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
Những nghĩa sĩ nông dân trở thành :những anh hùng thất thế
nhưng vẫn hiên ngang" (Phạm Văn Đồng). Hình tượng người nghĩa
sĩ chân đất lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam đã mang
hình dáng đầy bi tráng. Nó như một tượng dài sừng sững tạc vào
không gian lẫn với thời gian để nói với muôn đời rằng: Thác mà trả
nước non rồi nở, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà
ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
Sự gắn bó, lòng yêu thương và cảm phục đã khiến Nguyễn Đình
Chiểu ghi tạc vào thơ văn mình hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc
thật bi tráng. Hình tượng ấy mang sức nặng của một thời đại "nước
mắt anh hùng lau chẳng ráo" và tấm lòng yêu thương bi thiết của nhà
thơ mù đất Đồng Nai - Gia Định. Những người anh hùng "sống đánh
giặc, thác cũng đánh giặc". Còn nhà thơ của họ đã dựng lại tượng đài
ấy "nghìn năm" trong kí ức tâm hồn của người đời bằng văn chương.
Nguồn: Shopkienthuc
No Comment to " Phân tích bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc của Nguyễn Đình Chiểu "
(+) Nếu thấy bài viết còn thiếu sót hay cần bổ sung thêm rất mong bạn góp ý để blog ngày càng hoàn thiện.
(+) Khi đăng góp ý, bạn vui lòng viết Tiếng Việt đủ dấu và nhận xét đó có liên quan đến bài viết. Rất vui vì bạn đã đọc bài và cho ý kiến.