Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp ra sức vơ vét tối đa nhân lực vật lực và tài lực để gánh đỡ những tổn thất và thiếu hụt của Pháp trong chiến tranh.
Sử 11-Bài 24:VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT (1914 - 1918)
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI
1. Những biến động về kinh tế
- Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp ra sức vơ vét tối đa nhân lực vật lực và tài lực để gánh đỡ những tổn thất và thiếu hụt của Pháp trong chiến tranh.
- Pháp tăng thuế, bắt nhân dân Việt Nam mua công trái, vơ vét lương thực, nông lâm sản, kim loại… đem về Pháp.
- Sự cướp bóc của Pháp ảnh hưởng trầm trọng đến kinh tế – xã hội Việt Nam.
+ Công nghiệp: ngành khai mỏ được bỏ vốn thêm, một vài công ty than mới xuất hiện, các kim loại cần cho chiến tranh được khai thác mạnh. Trong giai đoạn này, Pháp nới lỏng cho các xí nghiệp của người Việt mở rộng quy mô sản xuất và kinh doanh (công ti của Nguyễn Hữu Thụ, Bạch Thái Bưởi), nhiều xí nghiệp mới xuất hiện.
+ Công thương nghiệp, giao thông vận tải: phát triển do chính sách nới tay độc quyền cho tư bản người Việt được kinh doanh tương đối tự do.
-Công việc kinh doanh của người Việt được mở rộng như Công ty của Nguyễn Hữu Thu, Bạch Thái Bưởi, nhiều xí nghiệp mới xuất hiện.
-Công nghiệp và giao thông vận tải ở Việt Nam có sự phát triển hơn trước, biến đổi so với trước.
+ Nông nghiệp: chuyển từ chuyên canh cây lúa sang trồng cây công nghiệp phục vụ chiến tranh (thầu dầu, đậu, lạc…). Đời sống nông dân khó khăn.
2. Tình hình phân hóa xã hội:
Chính sách của Pháp và những biến động về kinh tế trong chiến tranh đã tác động mạnh đến sự phân hóa xã hội Việt Nam.
- Nạn bị bắt lính và những chính sách trong nông nghiệp đã làm sức sản xuất ở nông thôn giảm sút nghiêm trọng, đời sống nông dân bị bần cùng.
- Giai cấp công nhân lớn lên về số lượng, đặc biệt trong hai ngành khai mỏ và trồng cao su.
- Tư sản Việt Nam dần thoát khỏi sự kiềm chế của người Pháp và phát triển: Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Hữu Thụ.
- Các tầng lớp tiểu tư sản thành thị phát triển rõ rệt về số lượng.
Tư sản và tiểu tư sản tăng về số lượng nhưng chưa trở thành giai cấp. Họ giữ những vai trò kinh tế, chính trị nhất định, song lực lượng chủ chốt của phong trào dân tộc thời kỳ này vẫn là công nhân và nông dân.
Lính ngừơi Việt bị đưa sang Pháp

II. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH VŨ TRANG TRONG CHIẾN TRANH.
1.Hoạt động của Việt Nam Quang phục hội:
-Do Phan Bội Châu lãnh đạo .
-Lực lượng: công nhân, viên chức hỏa xa tuyến Hải Phòng -Vân Nam.
-Hình thức đấu tranh: vũ trang .
-Hoạt động:
+Tấn công các đồn binh Pháp ở Cao Bằng, Phú Thọ, Nho Quan, Móng Cái…;
+Phá nhà ngục Lao Bảo.
-Thất bại và tan rã năm 1916.
2. Cuộc vận động khởi nghĩa của Thái Phiên và Trần Cao Vân (1916)
-Vua Duy Tân, Thái Phiên và Trần Cao Vân lãnh đạo
-Lực lượng là nhân dân và binh lính ở Trung Kì, có sự lãnh đạo của vua Duy Tân.
-Dự định phối hợp với binh lính Việt, chủ yếu ở miền Trung nổi dậy khởi nghĩa nhưng thất bại.
-Cả ba ông bị bắt

Vua Duy Tân

Trần Cao Vân
TRẦN CAO VÂN: (hiệu: Bạch Sĩ; 1866 - 1916), sĩ phu yêu nước Việt Nam trong phong trào kháng Pháp cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Quê: làng Tư Phú, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Tham gia phong trào Cần vương. Phong trào bị tan vỡ, vào Bình Định dạy học. Năm 1898, cùng Võ Trứ lãnh đạo khởi nghĩa chống Pháp tại Phú Yên. Bị bắt giam hai lần. Năm 1908, cùng Thái Phiên vận động binh lính (sắp bị đưa sang chiến trường Châu Âu) khởi nghĩa ở Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Đã liên hệ với vua Duy Tân, được giao viết "Chiếu khởi nghĩa". Kế hoạch bại lộ, bị bắt cùng vua và bị giết ngày 17.5.1916. Hiện còn một ít bài thơ: "Côn Lôn cảm tác" (2 bài) và "Côn Lôn phong cảnh ca" (đều viết lúc bị đày ở Côn Đảo); "Thơ tuyệt mệnh" làm trước lúc bị chém với khí phách kiên cường, bất khuất.
3. Khởi nghĩa của binh lính Thái Nguyên.

Trịnh Văn Cấn

Lương Ngọc Quyến là con cụ Lương văn Can , ông tham gia phong trào Đông Du, sang Nhật , năm 1914 ông bị bắt ở Hương Cảng , và bị thực dân Pháp kết án tù và đưa về nhà lao Thái Nguyên
-Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến lãnh đạo .
- Lực lượng là tù chính trị và binh lính người Việt
- Hoạt động :
+Đêm 30 rạng 31.08.1817, quân khởi nghĩa kiểm soát toàn bộ thị xã (trừ trại lính Pháp), giương cờ “Nam binh phục quốc”.
+Phát hịch tuyên bố Thái Nguyên độc lập, đặt quốc hiệu là Đại Hùng, vạch tội ác của giặc Pháp, kêu gọi khôi phục nền độc lập của đất nước.
+Pháp đưa 2000 lính đán áp. nghĩa quân chiến đấu anh dũng trong 6 tháng thì thất bại
-Thất bại:đánh một đòn mạnh vào chính sách “Dùng người Việt trị người Việt” của thực dân Pháp
![]() |
Cổng trại lính khố xanh tỉnh Thái Nguyên xây năm 1913, nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa năm 1917. |
Trại lính khố xanh: là nơi Đội Cấn và một số viên đội có lòng yêu nước tập hợp đội ngũ, bàn bạc kế hoạch khởi nghĩa. Đêm 30 rạng sáng ngày 31, Đội Cấn hạ lệnh giương cao cờ Ngũ tinh nền vàng có năm ngôi sao và dòng chữ Nam binh phục Quốc phát lệnh khởi nghĩa, thành lập Bộ Chỉ huy khởi nghĩa. Trại lính khố xanh xưa nay nằm gọn trong khuôn viên Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam thuộc phường Trưng Vương, T.P Thái nguyên.
Cổng trại lính Khố Xanh tỉnh Thái Nguyên, nơi diễn ra Khởi nghĩa của binh lính và tù chính trị ở Thái Nguyên năm 1917.
![]() |
Đền thờ Đội Cấn tại phường Hoàng Văn Thụ (T.P Thái Nguyên). |
4. Phong trào Hội kín ở Nam Kỳ.
-Phan Xích Long lãnh đạo
-Chủ yếu là nông dân ở Nam Kì
-Phát triển rầm rộ ở miền Nam. Đáng chú ý nhất là vụ đột nhập vào Sài Gòn, mưu phá khám lớn để cứu Phan Xích Long
-Thất bại vì thiếu sự lãnh đạo của giai cấp tiên tiến nhưng biểu lộ tinh thần quật khởi của nông dân miền Nam

Phan Xích Long
5. Những cuộc khởi nghĩa vũ trang của đồng bào các dân tộc thiểu số
-Thủ lĩnh các dân tộc ít người (Giàng Tả Chay, Nơ-trang Lơng)
-Dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên
- 1914 – 1915: khởi nghĩa của người Thái ở Tây Bắc.
- 1918, người Mông ở Lai Châu khởi nghĩa
- 1918 - 1919, ở Đông Bắc, binh lính đồn Bình Liêu nổi dậy, lôi cuốn đông đảo các dân tộc Nùng, Dao...
- Ở Tây Nguyên, lớn nhất là khởi nghĩa của đồng bào Mơ-nông do Nơ-trang Lơng chỉ huy, dài hơn 20 năm.
Tất cả đều thất bại nhưng đã góp phần vào cuộc đấu tranh chung của dân tộc.
- Nhận xét:
+ Phong trào đấu tranh lan rộng khắp cả nước, lôi kéo nhiều thành phần xã hội tham gia, hình thức đấu tranh chủ yếu là vũ trang.
+ Kết quả: thất bại do bế tắc về đường lối đấu tranh.
Những nét riêng:
+Cuộc vận động khởi nghĩa của Thái Phiên và Trần Cao Vân có sự tham gia của vua Duy Tân. Cuối năm 1916 ông đã liên lạc với Thái Phiên và Trần Cao Vân (hai nhà chí sĩ của Việt Nam Quang phục hội - Phan Bội Châu chủ xướng) bàn mưu khởi nghĩa song do bị lộ nên cả ba người đã bị thực dân Pháp bắt. Thực dân Pháp tìm đủ cách dụ dỗ ông quay lại ngai vàng song ông kiên quyết từ chối, không chịu khuất phục trước quân Pháp và tay sai. Duy Tân đã bị lưu đày sang đảo Rêuyniông cùng vua cha là Thành Thái
+ Cuộc khởi nghĩa của binh lính Thái Nguyên có nhiều nét độc đáo:đĐây là cuộc vùng dậy mãnh liệt của binh lính người Việt trong quân đội Pháp, dùng súng giặc giết giặc, tạo nên truyền thống tốt đẹp của những binh sĩ cứu quốc Việt Nam sau này.
+Các cuộc nổi dậy của đồng bào dân tộc thiểu số diễn ra trên những địa bàn rộng lớn; lợi dụng địa hình rừng núi gây cho địch nhiều thiệt hại, buộc địch phải rút lui hoặc nhân nhượng một số quyền lợi.
III. SỰ XUẤT HIỆN KHUYNH HƯỚNG CỨU NƯỚC MỚI
1. Phong trào công nhân
- Vào thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào công nhân vẫn phát triển, kết hợp đấu tranh kinh tế với bạo động vũ trang: nghỉ việc chống cúp phạt lương, bỏ trốn chống bọn cai thầu, tham gia khởi nghĩa Thái Nguyên, đốt nhà cai thầu…
- Phong trào thể hiện rõ bản chất đoàn kết, kỷ luật của giai cấp công nhân, tuy vậy vẫn mang tính tự phát.

Hành trình tìm đường cứu nước của Chủ Tịch Hồ Chí Minh-1911-1941
2. Buổi đầu hoạt động của Nguyễn Ái Quốc
a. Tiểu sử:
-Nguyễn Ai Quốc tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19/05/1890 trong một gia định trí thức yêu nước ở Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An, nên sớm có tinh thần yêu nước và ý chí cứu nước.
-Ngày 05/06/1911, Người rời cảng Nhà Rồng ra đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc.
b. Hoạt động:
- Từ năm 1911 – 1917, Người đi qua nhiều nước và nhận thức rằng ở đâu bọn thực dân cũng tàn bạo, độc ác và ở đâu, người lao động cũng bị áp bức, bóc lột dã man.
- Cuối năm 1917, Người trở về Pháp, tích cực học tập, rèn luyện và tham gia phong trào công nhân Pháp. Người đã tích cực viết báo, truyền đơn… tố cáo thực dân Pháp và tuyên truyền cho cách mạng Việt Nam.
-Sống và làm việc trong phong trào công nhân Pháp, tiếp nhận tư tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, tư tưởng của Người có những chuyển biến, là cơ sở để sau này Người xác định con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.
Tham khảo :
1. Thống kê các phong trào yêu nước trong thời kì Chiến tranh thế giới thứ nhất
Phong trào
|
Lãnh đạo
|
Lực lượng
|
Hoạt động
|
Kết quả – Ý nghĩa
|
Việt Nam Quang phục hội
|
Phan Bội Châu
|
Công nhân, viên chức hỏa xa tuyến Hải Phòng -Vân Nam
|
- Tấn công các đồn binh Pháp ở Cao Bằng, Phú Thọ, Nho Quan, Móng Cái…;
- Phá nhà ngục Lao Bảo.
|
Thất bại và tan rã năm 1916.
|
Cuộc vận động khởi nghĩa của Thái Phiên và Trần Cao Vân (1916)
|
Vua Duy Tân, Thái Phiên và Trần Cao Vân
|
Nhân dân và binh lính ở Trung Kì
|
Dự định phối hợp với binh lính Việt, chủ yếu ở miền Trung nổi dậy khởi nghĩa nhưng thất bại.
|
Cả ba ông bị bắt
|
Khởi nghĩa của binh lính Thái Nguyên
|
Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến
|
Tù chính trị và binh lính người Việt
|
- Đêm 30 rạng 31.08.1817, qưân khởi nghĩa kiểm soát toàn bộ thị xã (trừ trại lính Pháp), giương cờ “Nam binh phục quốc”, phát hịch tuyên bố Thái Nguyên độc lập, đặt quốc hiệu là Đại Hùng, vạch tội ác của giặc Pháp, kêu gọi khôi phục nền độc lập của đất nước
|
Pháp đưa 2000 lính đán áp. nghĩa quân chiến đấu anh dũng trong 6 tháng thì thất bại
|
Phong trào Hội kín ở Nam Kỳ
|
Phan Xích Long
|
Chủ yếu là nông dân ở Nam Kì
|
Phát triển rầm rộ ở miền Nam. Đáng chú ý nhất là vụ đột nhập vào Sài Gòn, mưu phá khám lớn để cứu Phan Xích Long
|
Thất bại vì thiếu sự lãnh đạo của giai cấp tiên tiến
|
Những cuộc khởi nghĩa vũ trang của đồng bào các dân tộc thiểu số
|
Thủ lĩnh các dân tộc ít người (Giàng Tả Chay, Nơ-trang Lơng)
|
Dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên
|
- 1914 – 1915: khởi nghĩa của người Thái ở Tây Bắc.
- 1918, người Mông ở Lai Châu khởi nghĩa
- 1918 - 1919, ở Đông Bắc, binh lính đồn Bình Liêu nổi dậy, lôi cuốn đông đảo các dân tộc Nùng, Dao...
- Ở Tây Nguyên, lớn nhất là khởi nghĩa của đồng bào Mơ-nông do Nơ-trang Lơng chỉ huy, dài hơn 20 năm.
|
Tất cả đều thất bại nhưng đã góp phần vào cuộc đấu tranh chung của dân tộc.
|
2. Kết cục thất bại của phong trào đấu tranh vũ trang trong Chiến tranh thế giới thứ nhất nói lên điều gì ?
- Phong trào rộng khắp, lôi kéo nhiều thành phần trong xã hội tham gia.
- Hoạt động của binh lính người Việt trong quân đội Pháp càng minh chứng truyền thống yêu nước của nhân dân ta.
- Hình thức chủ yếu là đấu tranh vũ trang.
- Kết cục thất bại đã nói lên sự bế tắc về đường lối của phong trào yêu nước ở Việt Nam trong giai đoạn này.
3. Tại sao nói đây là thời kỳ phong trào cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối lãnh đạo?
- Các phong trào đều mang tính tự phát, chủ yếu đòi quyền lợi kinh tế.
- Chưa đề ra được đường lối đấu tranh lâu dài, cụ thể.
- Có nhiều thành phần giai cấp lãnh đạo
- Nguyên nhân chính là do chưa có đường lối cách mạng đúng đắn, thiếu sự lãnh đạo thống nhất của một giai cấp tiên phong, đủ sức tập hợp sức mạnh toàn dân tộc để đưa cách mạng đến thành công. Biểu hiện của nó là phong trào diễn ra lẻ tẻ, không thống nhất và cuối cùng đều thất bại.
Tham khảo :
Phan Xích Long sinh năm 1893, tên thật là Phan Phát Sanh còn có tên là Lạc, con trai của ông Phan Núi, làm nhân viên cảnh sát ở Chợ Lớn.
4 năm chiến tranh thế giới thứ nhất, Hội kín ở Nam kỳ phát triển mạnh, nhất là ở Biên Hòa, Bến Tre, Châu Đốc sau đó lan ra khắp Nam kỳ. Phan Xích Long nêu khẩu hiệu: “Tiên đã hôn quân, hậu đã loạn thần” như một lời tuyên ngôn của Hội kín và khởi nghĩa. Bên cạnh việc tuyên truyền giáo dục binh tướng bằng bùa phép, Phan Xích Long còn tỏ ra là người có thực tài am hiểu khoa học kỹ thuật khi tổ chức làm tạc đạn, hỏa lôi, rèn gươm. Ông đã lập căn cứ trên núi làm kho chứa lương thực, vũ khí. Khi xông trận binh tướng mặc quần đen, áo trắng, cầm giáo mác đối đầu với giặc.
Hoạt động của Phan Xích Long nổi tiếng nhất là anh lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp năm 1913 tại Sài Gòn.
Đêm 23 rạng ngày 24-3-1913, Nguyễn Hữu Trí và Đặng Tấn Sao đã dùng thuyền bí mật chở 5 trái phá loại lớn đến giấu tại cầu Ông Lãnh. Sau đó người trong Hội kín đến lấy và đặt ở các điểm đã được tính toán trước như dinh Chánh Soái, dinh Thống soái Nam kỳ, xưởng Ba Son... Ngoài ra, Hội kín còn bố trí đặt bom đồng loạt ở Chợ Lớn, Tân An, Sóc Trăng và ở Nam Vang (Campuchia). Trước ngày khởi nghĩa, Phan Xích Long đi nhiều nơi để tuyên truyền chống Pháp, kêu gọi: “Ta hãy đứng dậy mà phục quốc”, tiếc rằng anh đã bị bắt ở Phan Thiết trước một ngày. Sáng hôm sau (28-3-1913), 600 quân của Hội kín tiến quân từ Chợ Lớn về Sài Gòn và ai cũng tin rằng: Khi đã uống bùa thì không ai nhìn thấy và thân thể có phép gồng thì gươm đạn cũng không làm thủng da thịt (!) vì thế đội quân khi vừa áp sát mục tiêu đã bị quân Pháp phản công mãnh liệt nghĩa quân mau chóng tan rã.
Sáng 15-11-1913, Tòa đại hình Pháp đã đưa 104 người ra xét xử trong đó có Phan Xích Long. Tòa án nhận định: Chúng kinh hoàng trước vũ khí tự tạo: “Hễ những trái ấy nổ ra chỗ đông người thì bại to” các chiến sĩ của Hội kín đều tỏ ra hiên ngang trước tòa án quân thù, Phan Xích Long đanh thép quả quyết chỉ tiếc rằng hỏa lôi chưa làm banh xác quân thù. Anh bị kết án 2 năm khổ sai. Sự kiện này đã có tiếng vang lớn chấn động giới giang hồ mã thượng trên đất Nam kỳ. Ba năm sau, khuya ngày 16-2-1916, Hai Trí lại dẫn đoàn quân tới 300 người tấn công khám lớn Sài Gòn nhằm giải phóng Xích Long. Cuộc khởi nghĩa lại thất bại. Tòa Pháp lại xử Phan Xích Long một lần nữa và ngày 22-2-1916 có 38 người bị xử tử ở Đồng Tập (nay thuộc khu vực đường 3-2 và Điện Biên Phủ (Q.3 và Q.10) đứng đầu danh sách là Phan Xích Long.
Hoạt động của Phan Xích Long nổi tiếng nhất là anh lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp năm 1913 tại Sài Gòn.
Đêm 23 rạng ngày 24-3-1913, Nguyễn Hữu Trí và Đặng Tấn Sao đã dùng thuyền bí mật chở 5 trái phá loại lớn đến giấu tại cầu Ông Lãnh. Sau đó người trong Hội kín đến lấy và đặt ở các điểm đã được tính toán trước như dinh Chánh Soái, dinh Thống soái Nam kỳ, xưởng Ba Son... Ngoài ra, Hội kín còn bố trí đặt bom đồng loạt ở Chợ Lớn, Tân An, Sóc Trăng và ở Nam Vang (Campuchia). Trước ngày khởi nghĩa, Phan Xích Long đi nhiều nơi để tuyên truyền chống Pháp, kêu gọi: “Ta hãy đứng dậy mà phục quốc”, tiếc rằng anh đã bị bắt ở Phan Thiết trước một ngày. Sáng hôm sau (28-3-1913), 600 quân của Hội kín tiến quân từ Chợ Lớn về Sài Gòn và ai cũng tin rằng: Khi đã uống bùa thì không ai nhìn thấy và thân thể có phép gồng thì gươm đạn cũng không làm thủng da thịt (!) vì thế đội quân khi vừa áp sát mục tiêu đã bị quân Pháp phản công mãnh liệt nghĩa quân mau chóng tan rã.
Sáng 15-11-1913, Tòa đại hình Pháp đã đưa 104 người ra xét xử trong đó có Phan Xích Long. Tòa án nhận định: Chúng kinh hoàng trước vũ khí tự tạo: “Hễ những trái ấy nổ ra chỗ đông người thì bại to” các chiến sĩ của Hội kín đều tỏ ra hiên ngang trước tòa án quân thù, Phan Xích Long đanh thép quả quyết chỉ tiếc rằng hỏa lôi chưa làm banh xác quân thù. Anh bị kết án 2 năm khổ sai. Sự kiện này đã có tiếng vang lớn chấn động giới giang hồ mã thượng trên đất Nam kỳ. Ba năm sau, khuya ngày 16-2-1916, Hai Trí lại dẫn đoàn quân tới 300 người tấn công khám lớn Sài Gòn nhằm giải phóng Xích Long. Cuộc khởi nghĩa lại thất bại. Tòa Pháp lại xử Phan Xích Long một lần nữa và ngày 22-2-1916 có 38 người bị xử tử ở Đồng Tập (nay thuộc khu vực đường 3-2 và Điện Biên Phủ (Q.3 và Q.10) đứng đầu danh sách là Phan Xích Long.
Các nơi hoạt động của Phan Xích Long
Học giả Vương Hồng Sển có nhận định về cuộc khởi nghĩa của Phan Xích Long với những màu sắc tôn giáo, thậm chí còn nặng về mê tín bùa phép “nhưng còn mãi trong trí óc những người yêu nước”. Quan điểm trên quả là chính xác. Nhớ về Phan Xích Long - linh hồn của cuộc khởi nghĩa năm 1913 tại Sài Gòn, hiện nay ở TP.HCM có con đường ghi nhớ tên ông
Ngày 13.4.1913 và 26.4.1913, các chiến sĩ VNQPH đã đánh bom giết tuần phủ Thái Bình Nguyễn Duy Hàn và hai trung tá Pháp ở khách sạn Hà Nội, phố Tràng Tiền.
Năm 1915, họ lại tiến công các đồn binh Pháp ở Phú Thọ, Nho Quan, Móng Cái (7.1) và Tà Lùng (13.3), phá ngục Lao Bảo (28.9).
Năm 1916, Hội bị tan rã vì các lãnh tụ phần lớn bị bắt và bị giết.
No Comment to " Sử 11 - Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) "
(+) Nếu thấy bài viết còn thiếu sót hay cần bổ sung thêm rất mong bạn góp ý để blog ngày càng hoàn thiện.
(+) Khi đăng góp ý, bạn vui lòng viết Tiếng Việt đủ dấu và nhận xét đó có liên quan đến bài viết. Rất vui vì bạn đã đọc bài và cho ý kiến.