Browsing "Older Posts"

Browsing Category "Lớp 11"

Phân tích bài Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương

By Anonymous →
I: MỞ BÀI
Cách 1: Giới thiệu tác giả – dẫn dắt vào tác phẩm
(VD: Có thể nói Hồ Xuân Hương là một trong hai nhà thơ nữ nổi tiếng nhất của nền thơ trung đại Việt Nam. Bà không chỉ chiếm giữ vị trí bà chúa thơ Nôm mà còn là một đỉnh cao của của trào lưu nhân đạo thời kì này. Hầu hết sáng tác của bà tập trung tái hiện số phận nhiều cay đắng đâu khổ của người phụ nữ trong XHPK. Bà đã cất lên tiếng nói đồng cảm trân trọng họ với tư cách một người trong cuộc. Tiêu biểu cho cảm hứng nhân đạo ấy là bài thơ Tự tình II.)
Cách 2 : Giới thiệu đề tài người phụ nữ _ liệt kê những tác giả tác phẩm tiêu biểu ( vd như Nguyễn Dữ, Nguyễn Du..) _ nhấn mạnh đóng góp riêng của Hồ Xuân Hương với chùm thơ Tự tình _ trong đó bài Tự tình II để lại nhiều sâu sắc….
II: THÂN BÀI
Giải thích nhan đề Tự tình:
1, Câu 1 : Câu thơ mở ra với khoảng thời gian không gian đặc biệt;
- Đêm khuya: lúc nửa đêm về sáng, khi vạn vật chìm trong bóng tối
- Trên nền không gian ấy nổi bật âm thanh tiếng trống điểm canh
+ “văng vẳng” từ láy tượng thanh _ những âm thanh nhỏ từ xa vọng đến _ càng gợi cái im vắng của không gian ( lấy động tả tĩnh)
+ “dồn” đối lập tương phản _ âm thanh dồn dập gấp gáp như hối thúc, dội vào lòng người.
2, Câu 2
- Cấu trúc đảo ngữ đc nhà thơ sử dụng để nhấn mạnh:
+ cảm giác lẻ loi trơ chọi
+ nỗi bẽ bàng trơ chẽn
- ” Cái hồng nhan” cụm từ ngữ mang sắc thái trai ngược
+”cái” suồng sã
+”hồng nhan” trang trọng
- ” Với nước non” gợi cốt cách cứng cỏi, tư thế kiêu hãnh của người phụ nữ cô đơn buồn tủi..
3, Hai câu 3, 4
Người phụ nữ lẻ loi cô độc ấy muốn kiếm tìm cho tâm hồn mình một điểm tựa nhưng ko thể
- Chén rượu: nỗi cô đơn buồn tủi chồng chất – phải tìm đến chén rượu – mong có sự khuây khoả…nhưng kết cục ” say lại tỉnh” – lúc tỉnh ra thì nỗi cô đơn buồn tủi lại càng trĩu nặng
- Hướng đến vầng trăng mong tìm thấy một người bạn tri ân giữa đất trời nhưng:
+ mảnh trăng khuyết mỏng manh
+ lại còn bóng xế – đang tà đang lặn – càng thêm mờ nhạt xa vời
==>Con người chới với giữa một thế giới mênh mông hoang vắng _ bất lực trước nỗi cô đơn trơ trọi của chính mình.
4, Hai câu 5, 6
Nhưng người phụ nữ đó không hề đắm chìm trong tuyệt vọng mà cất lên tiếng nói bi phẫn – tràn đầy tinh thần phản kháng
- Tác giả đã sử dụng các yếu tố tương phản để gợi lên thân phận người phụ nữ xưa
+ “rêu từng đám; đá mấy hòn” – ít ỏi nhỏ nhoi trên nền không gian rộng lớn mênh mông của chân mây mặt đất
+ Ẩn dụ cho thân phận lẻ loi cô đơn của chủ thể trữ tình
- Nhưng người phụ nữ này đã ko chịu khuất phục – trái lại dũng cảm đấu tranh – tinh thần phản kháng mạnh mẽ quyết liệt
+ tinh thần ấy đc diễn tả bằng cấu trúc đảo ngữ với những động từ mang sắc thái mạnh “xiên ngang; đâm toạc”…
+ khát vọng “nổi loạn” : phá tung đạp đổ tất cả những trói buộc đang đè nặng lên thân phận mình…
5, Hai câu cuối
Tiềm ẩn trong tâm hồn người phụ nữ ấy là niềm khát khao đc hạnh phúc
- Câu 1:
+ “ngán” – tâm sự chán trường, bất mãn
+ xuân đi: tuổi trẻ của con người cứ trôi qua – thời gian không chờ đợi
+xuân lại lại: vòng tuần hoàn của thời gian vô tận _ sự trớ trêu: cứ mỗi mùa xuân đến cũng là lúc tổi xuân của con người mất đi, quy luật khắc nhiệt của tạo hoá.
=>Bộc lộ ý thức của con người về bản thân mình với tư cách cá nhân – có ý thức về giá trị của tuổi thanh xuân và sự sống.
- Câu 2: Đời người hữu hạn, tuổi xuân ngắn ngủi mà cơ hội có hạnh phúc lại quá mong manh
+ ” mảnh tình”: chút tình cảm nhỏ nhoi – lại còn phải san sẻ – cuối cùng chỉ còn là ” tí con con” – chút nhỏ nhoi không đáng kể
+ câu thơ in đậm dấu ấn tâm trạng nhà thơ – Hồ Xuân Hương là người phụ nữ xinh đẹp tài hoa – nhưng lỡ làng duyên phận – từng chịu cảnh làm lẽ – thấm thía hơn ai hết nỗi cay đắng bẽ bàng hờn tủi của cảnh ngộ mảnh tình san sẻ…
==> Ẩn sâu trong những dòng thơ này là niềm khát khao hạnh phúc tình yêu – một tình yêu nồng thắm một hạnh phúc trọn vẹn đủ đầy.
III: KẾT BÀI
- Bày tỏ một cách chân thành sâu sắc những tâm tư tình cảm,, tác giả đã cất lên tiếng nói đồng cảm sâu sắc với thân phận người phụ nữ…đống thời nhà thơ thể hiện tinh thân phản kháng mạnh mẽ và khát vọng hạnh phúc tha thiết -> tràn đầy giá trị nhân đạo.
- Bài thơ cũng tiêu biểu cho phong cách thơ Nôm của HXH
+ngôn từ hình ảnh bình dị dân dã mà giàu sức gợi
+ thể thơ Đường luật đc Việt hoá ……

Các từ khóa trọng tâm " cần nhớ " của bài viết trên hoặc " cách đặt đề bài " khác của bài viết trên:

  • phan tich bai tho tu tinh 2
  • tu tinh 2 cua ho xuan huong
  • phan tich bai tho tu tinh
  • phan tich tu tinh 2
  • tu tinh cua ho xuan huong
  • tự tình hồ xuân hương
  • phân tích bài thơ tự tình của hồ xuân hương
  • Phan tich bai tu tinh 2
  • TU TINH 2
  • pHan tich bAi tu tinh
  • [Văn 11] Hướng dẫn soạn bài vào phủ chúa Trịnh

    By Anonymous →

    Soạn bài: Vào phủ chúa trịnh.
           I. Tác giả, tác phẩm
           a) Tác giả.
           - Lê Hữu Trác (1720 – 1791) tên hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, quê cha ở Hưng Yên, quê mẹ ở Hà Tĩnh.
           - Ông là một danh y đồng thời là nhà văn nhà thơ lớn.
           b) Tác phẩm, thượng kinh kí.
           - Thể loại: Kí sự.
           - Viết bằng chữ Hán miêu tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ chúa và quyền uy thế lực của nhà chúa qua những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp là Lê Hữu Trác được chúa Trịnh sâm triệu về kinh đô chữa bệnh cho chúa và thế tứ Trịnh Cán. Tác phẩm còn thể hiện thái độ kinh thường danh lợi của tác giả.
           - Bố cục:
           + Phần 1: Từ đầu > không có dịp: Quang cảnh bên ngoài phủ chúa.
           + Phần 2: Còn lại: Cảnh nội dung.
           II. Đọc – hiểu.
           1. Quang cảnh trong phủ chúa (được miêu tả từ ngoài > trong, từ bao quát đến cụ thể).
           - Phải qua mấy lần cửa, vườn hoa đầy sắc hương và tiếng chim riu rít, những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau.
           - Đến hậu mã – nơi quân Hậu mã chờ sẵn để chúa sai, cột và bao lươn lượn vàng, nhà “Đại đường” tất cả các cột và đồ dùng đều sơn son thiếp vàng…
           - Vào nội cung cảnh càng xa hoa tráng lệ: trường gấm, màn là, xập vàng, ghế rồng, hương hoa ngào ngạt…
           Quảng cảnh cực kì xa hoa, lộng lẫy. Tác giả đã ngâm lên bài thơ để diễn tả hết sự sang trọng, vương giả trong phủ chúa.
           * Những nghi thức, cung cách sinh họat trong phủ chúa.
           - Trong phủ có nhiều loại quan và người phục địch, người làm một nhiệm vụ.
           - Lời lẽ nhắc đến chúa Trịnh và thế tử phái hết sức cung kính.
           - Thế tử chỉ là một đứa bé năm sáu tuổi, mạch xong lại lay, 4 lạy nữa mới được lui ra. Muốn xem thân hình thế tử để chuẩn đoán bệnh phải có quan viện nội thần đến xin phép cởi áo cho thế tử…
           - Tác giả vào đến nội dung không những không được thấy mặt chúa, tất cả chỉ làm theo lệnh và thông qua quan chánh đường.
     Cảnhà        nội dung trang nghiêm phản ánh quyền uy tột bậc của nhà chúa.
           * Cách nhìn của tác giả đối với đời sống nơi phủ chúa:
           - Tác giả không bộc lộ trực tiếp thát độ nhưng qua việc chọn chi tiết để kể và tả, đôi lúc xen vào lời nhận xét khách quan, phần nào thấy được thái độ của ông: 
           + Ông nhận xét cảnh xa hoa, lộng lẫy tấp nập ở phủ chúa “khác hẳn người thường” đến mức không tưởng tượng nổi, “khác nào ngư phủ đào nguyên thưa nào”.
           + Được mời ăn cơm: tác giả nhận xét “toàn của ngon vật lạ”
           + Tác giả nhận xét nguyên nhân nơi phủ chúa cái gì cũng đẹp, cái gì cũng sang nhưng thái độ của tác giả lại tỏ rõ sự dưng dưng, không đồng tính với cuộc sống quá tiện nghi, quá sang trọng, khác thường như vậy. Đó là cuộc sống ăn chơi, hưởng lạc xa xỉ nhưng lại chẳng có tự do sinh khí.
           2. Phẩm chất người thầy thuốc giải: tuy ông ở quê nhưng tiếng tăm của ông “như sấm bên tai các thầy thuốc giỏi ở trong cung. Ông hiểu rõ căn bệnh thế tử nhưng sợ chữa khỏi ngay sẽ bị giữ lại bên chúa, bị công danh trói buộc. Chứng tỏ ông là người khinh thường danh lại.
           - Ông muốn chữa bệnh cầm chừng cho thế tử nhưng lại thấy trái với y đức, phụ lòng của cha ông…
           Chứng tỏ ông là người có lương tâm, đức độ.
           - Khi đã quyết định chữa bệnh cho thế tử, mặc dù ý kiến trái với ý đa số thầy thuốc trong cung nhưng ông vẫn bảo vệ giữ nguyên ý kiến. Chứng tỏ ông là người thầy thuốc già dặn kinh nghiệm và có bản lĩnh, có chính kiến.
           3. Nét đặc sắc trong bút pháp kí sự của tác giả.
           Quan sát tỉ mỉ, khi chóp trung thực, tả cảnh sinh động, chọn được những chi tiết sắc sảo có ý nghĩa sâu xa (chi tiết: Thế tử, mất đứa bé, ngồi chiêm chệ trên sập vàng cho thầy, thuốc mật cụ già quý dưới đất lạy. Thế tử cười và ban lời khen: “ông này lạy khéo” đó là nghịch lý nhưng đó cũng là quyền uy của ma chúa, dù đó là một đứa bé chưa hiểu đời.
           4. Giá trị đoạn trích: Vẽ nên bức tranh sinh động, đầy tính hiện thực về cuộc sống xa hoa, uy quyền của chúa Trịnh qua đó bộc lộ thái độ coi thường danh lợi của tác giả

    Có ý kiến cho rằng: “ Hiếu thảo với cha mẹ giúp con người ta trưởng thành hơn”. Hãy trình bày suy nghĩ của anh (chị) về câu nói trên.

    By Sáng →
    Từ xưa đến nay, hiếu thảo luôn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.Vậy nên, có ý kiến cho rằng: “Hiếu thảo với cha mẹ giúp con người ta trưởng thành hơn”. Chúng ta hãy cùng nhau bàn bạc về câu nói trên.
    “Hiếu thảo” là kính trọng, lễ phép với cha mẹ, ông bà. Không những thế, “hiếu thảo” còn là sự yêu quý, biết ơn công lao của cha mẹ đã sinh thành, nuôi dưỡng chúng ta nên người. Mặt khác, “hiếu thảo” với cha mẹ còn là sự quan tâm, chăm sóc, lo lắng cho cha mẹ lúc mạnh khỏe cũng như lúc ốm đau. Còn “trưởng thành” là sự chín chắn trong suy nghĩ, hành động , lời nói. Một con người trưởng thành là một con người biết suy nghĩ, biết ơn công lao nuôi dưỡng của cha mẹ, sự vất vả, khó nhọc mà cha mẹ đã phải chịu để biết hiếu thảo với cha mẹ. Vậy nên, một con người biết hiếu thảo với cha mẹ chính là lúc con người đó đã trưởng thành hơn.
    “Hiếu thảo với cha mẹ giúp con người ta trưởng thành hơn là một nhận định hoàn toàn đúng đắn. Vì cha mẹ là người đã có công sinh thành, nuôi dưỡng chúng ta nên người nên việc hiếu thảo với cha mẹ phải là lẽ đương nhiên. Mặt khác, khi ta nuôi một con cún nó còn biết trung thành với chủ huống gì chúng ta là con người có suy nghĩ, có hiểu biết nên ta phải biết hiếu thảo với cha mẹ. Không những thế, nếu không biết hiếu thảo với cha mẹ, ta sẽ bị mọi người xa lánh vì cha mẹ là người có công lớn đối với ta mà ta không biết hiếu thảo thì đối với người khác sẽ ra sao? Hơn thế nữa, sống hiếu thảo với cha mẹ sẽ giúp cho tâm hồn ta thanh thản, không hổ thẹn với chính lương tâm của mình. Vậy nên, lời dạy trên quả thật chí lý! Trong cuộc sống có rất nhiều tấm gương về lòng hiếu thảo. Ví như cụ Nguyễn Đình Chiểu khi xưa biết được tin mẹ mất, cụ đã đau long bỏ cả thi cử, trở về chịu tang và khóc đến nỗi mù cả hai mắt. Hay Lão Lai Tử ở Trung Quốc tuổi tuy đã cao nhưng vẫn mặc đồ như một đứa trẻ chọc hề cho cha mẹ vui. Hay như Mục Kiền Liên trong sự tích “Mục Liên tìm mẹ”. Tất cả những tấm gương sáng ấy thật đáng để ta noi theo.
    Bên cạnh những tấm gương về lòng hiếu thảo vẫn còn đầy rẫy những con người hỗn hào với cha mẹ. Đáng giận hơn là có những vị quyền cao chức trọng không những không hiếu thảo với mẹ cha mà còn đang tâm đánh đập mẹ mình. Những con người ấy cần bị xã hội lên án khắt khe và bị mọi người chê trách. Tuy nhiên, hiếu thảo với cha mẹ là tốt nhưng ta còn cần phải hiếu thảo với ông bà và những người có công với mình, có như thế ta mới thực sự “trưởng thành”.
    Bản thân em, ý thức được mình là một học sinh, em sẽ cố gắng học thật tốt để không phụ công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ, phụ giúp mẹ nấu cơm, quét nhà, trông em để mẹ được nghỉ ngơi,…như vậy là đã bày tỏ lòng hiếu thảo của mình một cách thiết thực!
    Hiếu thảo với cha mẹ là một truyền thống đạo đức tốt đẹp. Chúng ta hãy cùng nhau gìn giữ truyền thống ấy để phát huy nét đẹp văn hóa vốn có của dân tộc Việt Nam.
    ---------------
    Bài của NGHUYỄN NGỌC TUYẾT ANH -11A9- VTS

    Nam Cao

    By Sáng →

    Tên học sinh: Trần Trung Nghĩa (24). Lớp: 11A8

    Nam Cao.
    I.Cuộc đời.

    1.Tiểu sử.

    Nam Cao (1917-1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri, sinh ra trong một gia đình nông dân tại Đại Hoàng, tổng Cao đà, huyện Nam Sang, tỉnh Hà Nam.

    Ông học hết bậc Thành Chung, sau đó vào Sài Gòn và có ý định du học, nhưng do sức khỏe nên phải về quê và thất nghiệp; có thời gian ông dạy học cho một trường tư ở Hà Nội, nhưng do chiến tranh, trường đóng cửa, ông chật vật với nghề viết văn và gia sư.

    Năm 1945, ông tham gia Tổng khởi nghĩa ở quê nhà. Năm 1946, ông có mặt trong đoàn quân Nam tiến; sau đó ông lên chiến khu Việt Bắc làm công tác văn nghệ. Năm 1950, ông tham gia chiến dịch Biên giới. Năm 1951, ông hi sinh trên đường làm công tác.

    2.Con người

    Bề ngoài, Nam Cao vụng về, ít nói, lạnh lung, nhưng đời sống nội tâm luôn sục sôi, căng thẳng: ông thường lấy làm xấu hổ những tư tưởng mà ông tự thấy là tầm thường, hèn kém của mình, đồng thời muốn khắc phục những tư tưởng ấy để sống xứng đáng với danh hiệu Con Người. Trong tâm hồn Nam Cao, thường xuyên diễn ra xung đột gay gắt giữa lòng nhân đạo và thói ích kỷ, giữa dũng cảm với hèn nhát, giữa chân thực với giả dối, giữa khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường.

    Nam Cao rất giàu ân tình đói với những người nghèo khổ bị áp bước và bị khinh miệt. Theo ông, không có tình thương với đồng loại thì không đáng được gọi là con người. Những tác phẩm ông viết về người nông dân nghèo là một thiên trữ tình đầy xót thương đối với những kiếp sống lầm than.

    Nam Cao luôn suy tư về bản thân, cuộc sống, đồng loại từ thực tế mà để rút ra những khái phát triết lí sâu sắc.

     II.Sự nghiệp văn học.
    1.   Quan điểm sáng tác.

    Với tư cách là nhà văn, Nam Cao rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Chủ nghĩa hiện thực từ đầu thế kỷ XX đến Nam Cao mới thật sự tự giác đầy đủ về những nguyên tắc sáng tác của nó.

    “Trăng sáng”, “Đời thừa” được xem như những tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao. Ông phê phán thứ văn chương thi vị hóa cuộc sống đen tối, bất công, phục vụ thị hiếu “lãng mạn” của bọn trưởng giả no nê, nhàn rỗi, xem đó là thứ “ánh trăng lừa dối”.

    DC: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than… Điền cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời.” (Trăng sáng)

    Nam Cao chủ trương văn học phải phản ánh chân thực và sâu sắc đời sống cực khổ của nhân dân trên tinh thần nhân đạo chủ nghĩa. Một tác phẩm văn chương hay, có giá trị phải chứa đựng nội dung nhân đạo sâu sắc, mang nỗi đau nhân tình, tiếp sức mạnh cho con người.

    DC: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho con người gần con người hơn” (Đời thừa).

    Văn chương là một hoạt động sáng tạo, đòi hỏi người cầm bút phải biết khơi sâu, tìm tòi, khám phá cái mới.

    DC: “Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có.” (Đời thừa).

    Nam Cao quan niệm nhà văn phải là con người chân chính, phải có lương tâm, có nhân cách xứng đáng với nghề nghiệp của mình, không được dối trá, cẩu thả, chạy theo đồng tiền.

    DC: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật đê tiện” (Đời thừa).

    Sau CMT8 1945, Nam Cao vẫn tiếp tục sáng tạo theo quan điểm tích cực, song ông đã có cái nhìn toàn diện hơn về hiện thực. Tác phẩm “Đôi mắt” là một bản tuyên ngôn nghệ thuật khác của Nam Cao. Theo ông, phải có đôi mắt của tình thương mới thấu hiểu được bản chất tốt đẹp của nhân dân lao động; nhờ giác ngộ về vai trò cách mạng của quần chúng nhân dân , Nam Cao không chỉ nhìn họ bằng đôi mắt của tình thương mà còn cảm phục.

    DC: “Người ta chỉ xấu xa, hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ, và nước mắt là một miếng kính biến hình của vũ trụ…” (Nước mắt).
    “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở và ngu ngốc… Toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương.” (Lão Hạc)

    Tham gia vào cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc, Nam Cao đã tự nguyện đặt cách mạng lên trên nghệ thuật. Tuy ấp ủ hoài bão sáng tác nhưng ông vẫn tận tụy trong mọi công tác phục vụ kháng chiến với quan niệm “sống đã rồi hãy viết”, “góp sức vào công việc nghệ thuật lúc này là để sửa soạn cho tôi một thứ nghệ thuật cao hơn” (Nhật kí ở rừng) hay “nếu chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vọng về”, “muốn vứt cả bút đi để cầm sung” (Đường vô nam). Như Nguyễn Đình Thi đã viết: “Anh nắm cổ nghệ thuật của anh, bắt nó phục vụ cho cuộc chiến đấu sống chết của dân tộc.”

    Chốt: Nam Cao là nhà văn có quan niệm sáng tác tiến bộ.

    2.   Phong cách nghệ thuật.

      Nam Cao đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần của con người, luôn có hứng thú khám phá “con người bên trong con người”. Nam Cao luôn đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý đến hoạt động bên trong con người, coi đó là nguyên nhân của những hành động bên ngoài.

    DC: “Sống tức là cảm giác và tư tưởng. Sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ: có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động” (Sống mòn).

    Nam Cao là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tâm lí. Nam Cao có khuynh hướng tìm vào nội tâm, đi sâu vào thế giới tinh thần của con người. Ông có biệt tài miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật. Tâm lí nhân vật trở thành trung tâm chú ý, là đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao. Ông tỏ ra sắc sảo trong việc phân tích và diễn tả những trạng thái, những quá trình tâm lí phức tạp, những hiện thượng dở khóc dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện và ác, giữa hiền và dữ, giữa con người với con vật.

    Mở rộng cho luận điểm trên:

    Đối với Nam Cao, cái quan trọng nhất của tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến cớ, hoàn cảnh mà là con người trước sự kiện, biến cố. Nam Cao không tốn công miêu tả, phân tích hoàn cảnh, mà những hoàn cảnh, sự kiện, tình tiết chỉ đóng vai trò khiêu khích, để cho nhân vật bộc lộ những nét tính cách, tâm lí của mình.

    DC: “Đời thừa” không hướng ngòi bút vào việc miêu tả nỗi khổ áo cơm mà tập trung thể hiện phản ứng tâm lí của con người trước gánh nặng áo cơm làm mai một tài năng và xói mòn nhân cách.

    Nam Cao còn phân tích quá trình tích tụ những biểu hiện tâm lí nhỏ nhặt nhất của nhân vật, làm nảy sinh những phẩm chất mới trong tâm hồn con người.

    DC: Trong “Chí Phèo”, Nam Cao đã phân tích tâm lí của Chí Phèo từ lúc tỉnh dậy cho đến lúc được Thị Nở cho ăn cháo hành, từ bang khuâng, bang hoàng, thức tỉnh lương tri cho đến lo lắng, khát khao hạnh phúc để làm rõ được bản chất lương thiện vẫn còn sống trong tâm hồn Chí.

    Nam Cao thường đặt nhân vật trong “hoàn cảnh nhỏ”, tập trung khai thác, khám phá, phát hiện, miêu tả cụ thể và sinh động tâm lí của con người bộc lộ trong cuộc sống hằng ngày => Chủ nghĩa hiện thực tâm lí đời thường.

    DC: Trong “Đời thừa”, Hộ vốn nghèo lại phải gánh vác gia đình, phải “xoay tiền”, “điên lên vì con khóc, nhà không lúc nào được yên tĩnh để cho hắn viết hay đọc sách…” Hộ lang thang, u buồn, nuối tiếc “những mộng đẹp ngày xưa”, sau còn say, chửi mắng, đánh đập vợ con.

    Nam Cao cũng thường rọi chiếu những hcỉ tiết tâm lí của nhân vật ánh sáng cuản hững tư tưởng có màu sắc triết lí thâm trầm, sâu sắc, khi thì nặng trĩu buồn thương, lúc pha hài hướcm hóm hỉnh.=> Chủ nghĩa hiện thực tâm lí-triết lí.

    DC: “Chao ôi! Cuộc sống như cuộc sống của chúng ta đang sống bây giờ đã thật có gì đáng cho ta thấy vui chưa? Người ta ghét nhau hoặc yêu nhau, nhưng bao giờ cũng làm khổ nhau cả.” (Sống mòn).

    Nam Cao đã mở rộng việc phản ánh hiện thực bằng cách khai thác sâu sắc thế giới tâm hồn con người, kể cả những “con người bé nhỏ” như Chí Phèo, Thị Nở. Nhiều nhân vật của ông đã “mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời”. Trong truyện Nam Cao, thế giới bên trong nhân vật, mặc dù là thế giới riêngm nhưng vẫn liên quan mật thiết đến thế giới bên ngoài. Đối với Nam Cao, việc “phân tích tâm lí nhân vật” không thể tách rời việc “phân tích xã hội”. Đây là khuynh hướng phân tích mới cho hiện thực chủ nghĩa trong văn học Việt Nam.

    Truyện Nam Cao có tính triết lí sâu sắc, triết lí mà không khô khan, xuất phát từ chính cuộc sống thực và từ tâm tư dằn vặt, đau đớn của nhà văn.

    DC: “Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa, cái bản tính tốt của người ta bị những lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất.” (Lão Hạc).

    Nhiều tác phẩm của Nam Cao được dệt nên từ những “cái hằng ngày” nhỏ nhặt, xoàngxĩnh liên quan đến đời sống riêng tư của các nhân vật mà không thường gọi là “những chuyện không muốn viết”. Thế nhưng qua đó, Nam Cao đã chạm đến vấn đề có tính nhân bản, đặt ra những vấn đề xã hội có ý nghĩa lớn lao, về thân phận con người, chứa đựng những triết lí nhân sinh sâu sắc, quan điểm nghệ thuật tiến bộ và vấn đề xã hội về tương lai của dân tộc và nhân loại. Bị kịch của đời thường, của những cái vặt vãnh hang ngày, qua ngòi bút của Nam Cao, đã trở thành những bi kịch vĩnh cữu.

    DC: Những tiếng con khóc, tiếng vợ gắt gỏng cũng đủ sức lôi tuột văn sĩ Điền xuống với biết bao khổ cực lầm than. (Trăng sáng).
    Cái lí tưởng nhân đạo cao cả, hoài bão nghệ thuật chân chính đều có nguy cơ “chết mòn” trước sự tấn công quyết liệt và dai dẳng, tàn bạo của cái đói, miếng ăn.( Đời thừa).

    Truyện Nam Cao luôn thay đổi giọng điệu, trong đó có hai giọng điệu cơ bản nhất: giọng tự sự lạnh lung với những đại từ mang sắc thái dửng đưng hay khinh bạc: y, thị, hắn…và giọng trữ tình sôi nổi tha thiết với những thán từ “chao ôi”, “hỡi ôi”. Hai giọng văn tuy đối lập nhưng chuyển hóa qua lại tạo sự hài hòa. Ngoài ra giọng điệu khác nhau của các nhân vật được trần thuật bằng lời kể trực tiếp hay nửa trực tiếp.

    Sau CMT8, Nam Cao nhiệt tình dùng ngòi bút phục vụ cách mạng, đã tiếng những bước vững chắc trên con đường nghệ thuật cách mạng. Truyện ngắn “Đôi mắt” xứng đáng đượcxem là tác phẩm vào loại xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.

    Với Nam Cao, truyện ngắn Việt Nam thể hiện đầy đủ tính hiện đại, đồng thời đạt đến độ hoàn thiện. Nam Cao còn có đóng góp lớn cho sự phát triển phong phú của ngôn ngữ văn xuôi nước ta.

    Chốt: Nam Cao là một nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo với tài miêu tả phân tích nội tâm nhân vật bậc thầy, nêu lên những triết lí nhân sinh sâu sắc, có sức khái quát lớn, xứng đáng là một nhà văn tài ba của văn học Việt Nam.

    3.Các đề tài chính.

    I. Trước Cách mạng.

    Những sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng gồm gần sáu mươi truyện ngắn, một truyện vừa, một tiểu thuyết, kịch và thơ.

    Nam Cao xoay quanh hai vấn đề chính: người nông dân nghèo và người trí thức nghèo. Tuy khác nhau về đề tài nhưng các sáng tác của ông vẫn có chung một tư tưởng: nỗi băn khoăn đau đớn trước tình trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm do cuộc sống đói nghèo đẩy tới.

    1. Đề tài người trí thức nghèo.

    Nam Cao là nhà văn của những người trí thức nghèo, của những kiếp “sống mòn” có hoài bão, có tâm huyết, tài năng, muốn vươn lên cao nhưng lại bị chuyện áo cơm ghì sát đất, mỗi trang viết về đề tài người trí thức nghèo đều chứa đựng tâm sự, nỗi đau và niềm khát khao cháy bỏng của chính nhà văn.

    Thứ nhất, Nam Cao đau đớn, phẫn uất trước tình cảnh con người không sao thoát khỏi kiếp “sống mòn” hay “chết mòn”. Những ước mơ, niềm say mê khát vọng chân chính cuản hững nhân vật trí thức trong tác phẩm Nam Cao đều bị vùi dập bởi hoàn cảnh, cuộc đời. Nam Cao chán ghét cuộc sống vô lí, vô ích, vô nghĩa, “chết mà chưa làm gì cả”, “chết trong lúc sống”. Ông không chấp nhận sự sống của con người chỉ là sự tồn tại sinh học. Namcao đã đồng cảm sâu sắc và đau đớn tột độ trước bị kịch của những con ngườim uốn sống có ý nghĩa bằng sự cống hiến của mình mà rốt cuộc phải sống như “một kẻ vô ích, một người thừa”. Qua đó, ta thấy Nam Cao đã có cái nhìn sâu sắc, có tầm triết lí, tổng  hợp khái quát cao về tình trạng “chết mòn” của con người.

    DC: “Có thú vị gì cái lối sống co quắp vào mình, cái lối sống quá ư loài vật, chẳng còn biết một việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào dạ dày” (Sống mòn).
    “Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khao khát làm một cái gì đó để mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết ucc5 chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?” (Đời thừa).

    Thứ hai, những nhân vật trí thức của Nam Cao không những “chết mòn” những ước mơ, khát vọng, hoài bão mà còn “chết mòn”về mặt nhân cách con người, dẫn đến những ý nghĩ, hành động tàn nhẫn. Qua đó, Nam Cao đã phê phán sâu sắc cái xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống , tàn phá tâm hồn con người.

    DC: Trong cơn say vật vã, Hộ đã chửi bới, quăng đồ đặc, đánh đập đòi đuổi Từ và các con trong “Đời thừa”.

    Thế nhưng, trong khi miêu tả con người bị đẩy vào tình trạngcó những hành động tàn nhẫn, Nam Cao vẫn không chấp nhận cái ác, vẫn kiên định giữ vững nguyên tắc tình thương của mình. Nhân vật của Nam Cao không phải không có lúc ngả nghiêng, chao đảo, nhưng cuối cùng đều đứng vững trên lập trường nhân đạo, vẫn giữ vững được cái lẽ sống tình thương cao cả của mình.

    DC: Mặc dù bế tắc, khổ đau nhưng Hộ trong “Đời thừa” vẫn không chấp nhận sự tàn nhẫn và không thể vứt bỏ tình thương: “Hắn có thể hi sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương…”

    Cuối cùng, Nam Cao thể hiện niềm khát khao một lẽ sống lớn, một cuộc sống sâu sắc, mãnh liệt, có ích, có ý nghĩa. Những con người mang hoài bão lớn hầu như lâm vào cảnh “chết mòn”, nhưng dẫu bị “áo cơm ghì sát đất”, họ vẫn chưa hoàn toàn cạn hết niềm tìn, niềm hi vọng, vẫn khao khát được sống, được cống hiến, được phát triển.

    DC: Thứ trong “Sống mòn” đã từng “thích làm một việc ảnh hưởng đến xã hội ngay” và quan niệm: “Sống là để làm một cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi người sống phải làm thế nào cho phát triển đến tận độ những khả năng của loài người chứa đựng trong mình…Mỗi người chết đi, phải để lại chút gì cho nhân loại.”

    Nam Cao đòi hỏi để cho mỗi cá nhân được phát triển đến tận độ với một ý thức đầy trách nhiệm và trong mối quan hệ mật thiết với sự phát triển chung của xã hội. Tư tưởng nhân văn mới mẻ và sâu sắc đó chưa từng có trong nền văn học hiện đại Việt Nam trước Cách mạng. Đó là một tư tưởng lớn vượt ra ngoài cả thời đại Nam Cao.

    TPTB: “Đời thừa”, “Trăng sáng”, tiểu thuyết “Sống mòn”…

    1. Đề tài người nông dân nghèo.

    Nam Cao là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ và bất hạnh, của những con người nghèo khổ, tủi nhục nhất trong xã hội thực dân phong kiến.

    Viết về đề tài này, Nam Cao đã dựng nên một bức tranh sống động, chân thực về nông thôn Việt Nam nghèo đói, xơ xác, thể thảm những năm 1940-1945.

    DC:

    Nam Cao chú ý tới những con người thấp cổ bé họng, bị cuộc đời xua đuổi, hắt hủi, khinh bị một cách bất công.

    DC:

    Nam Cao còn lên án cái xã hội, những thành kiến, định kiến tồi tệ đã đẩy con người vào đường cùng tuyệt vọng, hủy hoại từ ngoại hình cho đến nhân phẩm của họ.

    DC: Cái chết của Chí Phèo phần nào minh chứng cho điều này, Chí Phèo đã bị tước đoạt ngoài hình, bị xã hội hắt hủi, cự tuyệt quyền làm người lương thiện, bị từ chối cả tình yêu với thị Nở, cuối cùng Chí phải tự sát để giải thoát.

    Trên hết, Nam Cao với trái tim yêu thương chân thành, ông vẫn tin rằng trong tâm hồn của những con người không còn được là người, những con người bề ngoài được miêu tả như những con vật vẫn còn nhân tính, khát khao nhân bản và bản chất lương thiện vẫn còn tồn tại. Bằng việc phát hiện ra cái phần con người còn sót lại, trân trọng những khát khao nhân bản và miêu tả những rung động trong sáng của những tâm hồn tưởng chừng đã bị cuộc đời làm cho cằn cỗi, u mê đã làm cho Nam Cao trở thành một trong những nhà nhân đạo lớn nhất nền văn học hiện đại Việt Nam.

    DC: Đằng sau bộ mặt xấu xí “ma chê quỷ hờn” của Thị Nở vẫn tồn tại một khát khao yêu thương, và khi được tình yêu sưởi ấm, thị cũng hồi hộp, vui mừng, cũng “lườm”, “quýt”, “âu yếm”, “e thẹn”…
    Thậm chí, ở Chí Phèo- một kẻ lưu manh bị hủy hoại từ nhân hình đến nhân tính- vẫn cảm nhận được những rung động của tình yêu, vẫn lo lắng, và khao khát lương thiện trước sự chăm sóc của Thị Nở.

    =>Đối với Nam Cao, chỉ có tình thương yêu giữa con người với con người mới có sức mạnh cảm hóa, làm “người gần người”, cuộc sống tốt đẹp hơn.

    THPT: “Chí phèo”, “Một bữa no”,  “Một đám cưới”, “Lão Hạc”, dì Hảo”…

    Chốt: Dù viết về đề tài gì đi nữa thì Nam vẫn là một nhà văn hiện thực lớn bằng việc miêu tả xã hội, con người trước xã hội, đồng thời ông cũng là một nhà văn nhân đạo lớn luôn đặt tình thường yêu lên làm đầu khi sáng tác.

    II. Sau Cách mạng.

    Sau CM, Nam cao dùng ngòi bút phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp.

    TPTB: “Nhật kí ở rừng”, “Đôi mắt”, “Đường vô nam”…

    III.Kết luận.

    Nam Cao là nhà văn hiện thực và nhân đạo lớn.

    Những tác phẩm của ông trường tồn với thời gian với những ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện độc đáo.

    Nam Cao có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trên quá trình hiện đại hóa nửa đầu thế kỉ XX.